Phạm Văn Phú
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Thiếu Tướng Phạm Văn Phú (1929-1975) ( (Tư Lệnh Quân Đoàn II Vùng II Chiến Thuật của Quân lực Việt Nam Cộng hoà), là một trong năm tướng lĩnh đã tự sát trong sự kiện 30 tháng 4, 1975.
(Các tướng còn lại là: Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam Tư lệnh Quân đoàn IV và Vùng IV; Chuẩn tướng Lê Văn Hưng Tư lệnh phó Quân đoàn IV, Vùng IV Chiến thuật ; Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ Tư lệnh Sư đoàn 5 bộ binh; Chuẩn tướng Trần Văn Hai Tư lệnh Sư đoàn 7 bộ binh )
Phạm Văn Phú sinh năm 1929 tại Hà Đông.
Năm 1953, Phạm Văn Phú tốt nghiệp học Võ Bị Liên Quân Đà Lạt, sau đó phục vụ trong binh chủng Nhảy Dù.
Ngày 7 tháng 5 năm 1954, trong chiến dịch Điện Biên Phủ , Phạm Văn Phú bị Việt Minh bắt giam.
Sau Hiệp định Geneve, Phạm Văn Phú được trao trả và trở lại phục vụ trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa .
Năm 1962, Phạm Văn Phú thăng cấp Thiếu Tá và giữ chức vụ Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn Quan Sát 77 Lực Lượng Đặc Biệt.
Năm 1964, Phạm Văn Phú được thăng Trung Tá và giữ chức Tham Mưu Trưởng Lực Lượng Đặc Biệt.
Năm 1966, Phạm Văn Phú được thăng cấp Đại Tá, giữ chức Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 2 Bộ Binh sau đó làm Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 1 Bộ Binh .
Năm 1968, Phạm Văn Phú được cử giữ chức vụ Tư Lệnh Biệt Khu 44 .
Năm 1969, Phạm Văn Phú được thăng cấp Chuẩn Tướng .
Năm 1970, Phạm Văn Phú giữ chức vụ Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt và sau đó được bổ nhiệm giữ chức Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh .
Năm 1971, Phạm Văn Phú được thăng Thiếu Tướng .
Năm 1974, Phạm Văn Phú giữ chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn II Vùng II Chiến Thuật.
Giữa tháng 4 năm 1975, trong khi Phạm Văn Phú lâm bệnh, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đổ hết trách nhiệm về việc thất thủ ở Cao Nguyên lên vai tướng Phú.
Ngày 29 tháng 4 năm 1975, Phạm Văn Phú tự sát bằng cách uống một liều thuốc cực mạnh và chết vào trưa ngày 30 tháng 4, sau khi Tổng Thống Dương Văn Minh đầu hàng .