Sở (nước)
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Sở (楚) là một vương quốc chư hầu thời Xuân Thu (722-481 TCN) và Chiến Quốc (481-221 TCN) ở nơi hiện nay là phía nam Trung Quốc .
Ban đầu nước này được gọi là Kinh (荆) và sau đó là Kinh Sở (荆楚). Ở thời hùng mạnh nhất, Sở chiếm nhiều vùng đất rộng lớn, gồm các tỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc, Trùng Khánh, Hà Nam, Thượng Hải, và nhiều vùng thuộc Giang Tô ngày này. Kinh đô nước Sở đặt tại Dĩnh (郢).
Mục lục |
[sửa] Lịch sử
Vùng đất Kinh là nơi sinh sống của người Sở bản xứ. Ban đầu nước Sở được cai trị bởi một vị quý tộc có mối quan hệ gần gũi với các vua nhà Chu, và kinh đô của nó đặt tại Ðơn Dương (nay thuộc huyện Tỷ Quy, tỉnh Hồ Bắc). Trước khi nhà Chu mất quyền lực, lãnh thổ này được Chu Thành Vương nhà Đông Chu phong cho Hùng Dịch (熊绎) để lập thành một tiểu quốc chư hầu riêng. Hùng Dịch trở thành vua Sở đầu tiên.
Những năm đầu tiên, nước Sở rất thành công trong những chiến dịch quân sự mở rộng lãnh thổ. Sở nổi tiếng vì khả năng ép buộc và thu hút các nước khác gia nhập liên minh với họ. Từ một nước độc lập nhỏ ban đầu, Sở phát triển trở thành một đế chế rộng lớn và giàu mạnh so với chư hầu, thậm chí từng là một trong "Xuân Thu Ngũ bá" (春秋五霸). Đầu tiên, Sở củng cố quyền lực bằng cách thu hút các nước chư hầu nhỏ hơn thành các nước phụ dung của họ ở vùng Hồ Bắc; sau đó họ mở rộng ra phía bắc về phía Đồng bằng Hoa Bắc. Mối đe dọa từ nước Sở dẫn tới việc hình thành nhiều liên minh chống lại liên minh của họ; những liên minh đó đã thành công trong việc kìm chân nước Sở, và chiến thắng quan trọng đầu tiên của họ diễn ra tại Trận Thành Bộc.
Sức mạnh của vương quốc này tiếp tục tồn tại tới tận sau thời Xuân Thu năm 481 TCN. Sở chiếm nước Sái (Cai) ở phía bắc năm 447 TCN. Trong thời Chiến Quốc, Sở dần gặp phải áp lực của nước Tần từ phía Tây. Tầm vóc và sức mạnh biến Sở trở thành một thành viên chính trong các liên minh chống lại Tần. Khi Tần bắt đầu lấn tới Sở, Sở buộc phải mở rộng ra phía nam và phía đông, sáp nhập các nền văn hóa địa phương ở đó. Năm 333 TCN, Sở và Tề phân chia và sáp nhập nước Việt gần bờ biển.
Tuy nhiên, tới cuối thời Chiến Quốc (khoảng cuối những năm 300 TCN), ưu thế của Sở dần mất đi. Sau nhiều cuộc tấn công của Triệu và Tần, cuối cùng Sở bị Tần khuất phục.
Năm 278 TCN, tướng Tần là Bạch Khởi dẫn quân tới kinh đô Dĩnh, với ý định xâm lược. Sau khi mất Dĩnh Đô, Thọ Xuân (Shouchun, thuộc tỉnh An Huy hiện nay) trở thành kinh đô mới của vương quốc.
[sửa] Văn hoá
Dựa trên những khám phá khảo cổ học, văn hóa Sở ban đầu tương tự với văn hóa nước Triệu. Sau này, văn hóa Sở hấp thu thêm nhiều yếu tố bản xứ khi đất nước mở rộng ra phía nam và phía đông, phát triển một văn hóa riêng biệt so với văn hóa truyền thống của các nước chư hầu bắc Chu.
Những đồ vật dùng trong tang lễ buổi đầu nước Sở chủ yếu gồm các chậu đồng theo kiểu Chu. Những mộ Sở sau này, đặc biệt ở giai đoạn Chiến Quốc, chứa đựng những đồ vật khác biệt mang đặc trưng Sở như những đồ sơn mài, sắt và tơ lụa, cùng với sự giảm sút những đồ vật làm bằng đồng.
Một yếu tố mang đặc tính nước Sở thường thấy là sự thể hiện những con rắn, rồng và những loài vật giống rắn. Một số nhà khảo cổ học cho rằng nước Sở có lẽ từng có những mối liên hệ văn hóa với nhà Thương trước đó, bởi vì nhiều yếu tố Sở cũng đã xuất hiện sớm hơn ở những địa điểm có nền văn hóa Thương, như các yếu tố thể hiện những vị thần có đuôi rắn.
Văn hóa Sở muộn được biết đến với sự tương đồng của nó với những trình tự nghi thức kiểu pháp sư. Sở cũng nổi tiếng về âm nhạc đặc trưng của mình; các bằng chứng khảo cổ cho thấy âm nhạc Sở khác biệt so với âm nhạc Chu; nhạc Sở có khuynh hướng sử dụng nhiều phong cách biểu diễn khác nhau, cũng như các nhạc cụ đặc hữu; Tại Sở, đàn sắt được ưa chuộng hơn đàn cổ cầm, trong khi cả hai nhạc khí này được sử dụng như nhau tại các nước chư hầu bắc Chu.
Sở có các mối quan hệ thường xuyên với các dân tộc khác ở phương nam, nổi tiếng nhất là các nước Ba, Việt và các nhóm tộc Bách Việt. Nhiều lễ nghi và các đồ vật dùng trong mai táng kiểu Ba và Việt đã được tìm thấy bên trong lãnh thổ Sở, cùng tồn tại với kiểu và đồ dùng mai táng của Sở.
Những vị vua đầu tiên nhà Hán đã lãng mạn hóa văn hóa Sở, khiến xuất hiện một xu hướng nghiên cứu các yếu tố văn hóa Sở như Sở Từ. Sau thời nhà Hán, Sở lại mang tiếng là một nước man rợ; các học giả Khổng giáo không ưa văn hóa Sở, chỉ trích thứ âm nhạc "dâm dật" và những lễ nghi kiểu pháp sư của nó.
Sau thời gian dài bị Hán hóa, tiếng Sở đến nay đã bị thất truyền. Chỉ có một vài từ Sở còn lại được đến nay, được ghi trong một số thư tịch cổ chữ Hán thời Chiến Quốc. Hiện chưa có một cố gắng thu thập các từ vựng Sở từ các nguồn này một cách có hệ thống [1]. Các chữ được khẳng định là thuộc ngôn ngữ Sở được liệt kê tại Dự án nghiên cứu ngôn ngữ Sở tại Đại học Massachusetts Amherst
[sửa] Những người nổi tiếng
- Nhà thơ lừng danh Khuất Nguyên là người nước Sở. Ông là một vị quan trong triều và là người yêu nước, ông đã đưa ra ý kiến thống nhất Sở với các nước chư hầu khác để chống lại sự bành trướng của Tần, tuy nhiên không được ai nghe theo; ông bị vua Sở xua đuổi. Theo tục truyền, đau khổ khi biết tin về cuộc xâm lược của Tần, ông đã trầm mình tại sông Mịch La (汩罗江).
- Hạng Vũ, một quý tộc nước Sở cũ, nổi dậy và trở thành một thủ lĩnh chống Tần, sau khi đánh tan quân Tần, đã tự xưng là "Tây Sở Bá Vương", là một đối thủ của người sáng lập Hán triều, Lưu Bang. Ông là một vị tướng tài ba trên chiến trường nhưng lại kiêu ngạo nên đã phải chịu thất bại.
[sửa] Xem thêm
- Sở Từ
- Sở Trang Vương
- Tống Ngọc
- Ngô Khởi
- Khu vực khảo cổ Mã Vương Đôi
- Mộ Tằng Hầu Ất
[sửa] Tham khảo
- Defining Chu: Image And Reality In Ancient China, Edited by Constance A. Cook and John S. Major, ISBN 0824829050
- So, Jenny F., Music in the Age of Confucius, ISBN 0295979534