Dạ cổ hoài lang
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Dạ cổ hoài lang là một bản nhạc cổ do nghệ sỹ Cao Văn Lầu (Sáu Lầu) sáng tác vào năm 1918, nói về tâm sự người phụ nữ nhớ chồng lúc về đêm. Từ bản Dạ cổ hoài lang mỗi câu 2 nhịp, các nghệ sĩ sau này chuyển lên 4 nhịp rồi 8 nhịp, mà thành bài vọng cổ đầu tiên. Bài Vọng cổ hiện nay lên tới 32 nhịp.
Ông Cao Văn Lầu lấy vợ mười năm mà không có con, bị cha mẹ bắt phải lấy vợ khác. Vì buồn phải xa vợ cũ, ông tạo ra bản nhạc 20 câu gọi là "Dạ cổ hoài lang". Sau đó ít lâu thì vợ ông thụ thai. Bản nhạc đó sau được đổi thành "Vọng cổ hoài lang" có nghĩa rộng hơn là trông mối tình xưa mà nhớ đến chồng.
Có một tích khác là ông Cao Văn Lầu đã sáng tác bản nhạc này để tiếp đoàn nghệ sĩ từ miền Trung, do đó dùng âm của bài Hành Vân là nhạc miền Trung.
Hoài là nhớ, lang là người thanh niên, hoài lang là nhớ chàng, dạ là đêm, cổ là trống, dạ cổ là nghe tiếng trống về đêm (鼓 cổ, nghĩa là trống hoặc đánh trống).
Bài này được đưa lên sân khấu lần đầu bởi gánh hát Năm Tú ở Mỹ Tho, rồi sau đó được sử dụng rộng rãi, nhất là trong tuồng cải lương. Bài hát được biến đổi sang "Vọng cổ hoài lang" và về sau được đơn giản hóa bằng cái tên "Vọng cổ".
Đến năm 1926 thì bản nhạc được chuyển thành nhiều nhịp; nhịp đôi ca theo hơi Bắc với ảnh hưởng bản Hành Vân. Sau, tăng lên nhịp bốn. Đầu thập niên 1940, bài Vọng cổ được tăng lên nhịp tám và 5 năm sau tăng lên nhịp 16.
Bản Dạ cổ hoài lang sử dụng thang âm lên tới 7 cung, thuộc hệ thang âm Ai, Oán.
Mục lục |
[sửa] Lời bài ca
- Từ là từ phu tướng,
- Bảo kiếm sắc phong lên đàng.
- Vào ra luống trông tin chàng.
- Năm canh mơ màng.
- Em luống trông tin chàng,
- Ôi gan vàng quặn đau.
- Đường dù xa ong bướm,
- Xin đó đừng phụ nghĩa tào khang.
- Đêm luống trông tin bạn,
- Ngày mỏi mòn như đá Vọng phu.
- Vọng phu vọng luống trông tin chàng.
- Sao nỡ phũ phàng...
- Chàng là chàng có hay?
- Đêm thiếp nằm luống những sầu tây.
- Bao thuở đó đây sum vầy,
- Duyên sắc cầm lạt phai.
- Là nguyện cho chàng
- Hai chữ an bình an.
- Trở lại gia đàng,
- Cho én nhạn hiệp đôi.
[sửa] Ký âm cổ nhạc
(theo loại đàn dây Bắc)
- Hò lìu xang xê cống
- Líu cống líu cống xê xang
- Xừ xang xê hò líu cống xê xang hò
- Liu xế xang xự xề xang lìu hò
- Xừ liu xáng ũ liu cống xề
- Liu xáng xàng xề liu xề xáng ú liu
- Hò lìu xang xang xế cống
- Xê xê líu xừ, líu lĩu xừ xang
- Xừ xang xế, líu xê xang xư’'
- Xê líu xừ, líu lĩu xừ xang
- Xừ, xê líu xừ, líu cống xê, líu hò
- Liu xề xang xự cống xê xang lìu hò
- Xừ xang xừ cống xế
- Xê líu xừ, líu lĩu xừ xang
- Xừ xang xề hò líu cống xế xang hò
- Lưu xáng xàng, xề liu xề xáng ú liu
- Hò xự cống xê xang hò
- Xê líu xừ, líu lĩu xừ xang
- Xừ xang xế, hò líu cống xê xang hò
- Liu xáng xàng xề liu xề xáng ú liu
[sửa] Tham khảo
- Trần Văn Khải (1970). Nghệ thuật sân khấu Việt Nam, Khai Trí (Sài Gòn).
- Nguyễn Thuyết Phong (1989). Thế giới âm thanh Việt Nam, Hoa Cau (California).