Mạc Đĩnh Chi
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Mạc Đĩnh Chi (chữ Hán: 莫挺之; 1280-1346) là một quan nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông được mệnh danh là lưỡng quốc Trạng nguyên do vừa là trạng nguyên của Việt Nam và cũng được phong làm trạng nguyên Trung Quốc khi sang sứ.
Mạc Đĩnh Chi là người làng Long Động, xã Nam Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Ông có tướng mạo xấu xí nhưng trí tuệ thông minh.
Năm 1304 đời vua Trần Anh Tông niên hiệu Hưng Long thứ 12, triều đình mở khoa thi lấy 44 người đỗ Thái học sinh (tiến sĩ). Mạc Đĩnh Chi đỗ đầu, chiếm học vị trạng nguyên. Ông được cử giữ việc coi sóc thư khố của nhà vua, rồi chức Tả bộc xạ (Thượng thư)... Đặc biệt hai lần đi sứ Trung Quốc, ông đã dùng tài năng và phẩm chất thông minh của mình khiến người nước ngoài phải khâm phục.
Mục lục |
[sửa] Tài ứng đối
Mạc Đĩnh Chi là người giỏi ứng đối.
[sửa] Tài ứng đối thứ nhất
Năm 1308 Mạc Đĩnh Chi đi sứ Tàu, đến cửa khẩu sai hẹn, quân Nguyên canh gác bắt phải chờ đến sáng hôm sau. Thấy sứ bộ ta cứ biện bạch mãi, viên quan phụ trách canh cửa ải thả từ trên lầu cao xuống một câu đối, thử thách sứ bộ ta nếu đối được thì họ sẽ mở cửa. Câu đối có nội dung như sau:
-
- Quá quan trì, quan quan bế, nguyện quá khách quá quan
- (nghĩa là: Tới cửa ải trễ, cửa quan đóng, mời khách qua đường cứ qua)
Một vế đối hóc búa đến 4 chữ quan và 3 chữ quá? Mạc Đĩnh Chi thấy khó, nhưng ông đã nhanh trí dùng mẹo để đối như sau:
-
- Tiên đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối
- (nghĩa là: Ra câu đối dễ, đối câu đối khó, xin mời ông đối trước).
Vế đối của ông có 4 chữ đối và 3 chữ tiên, đúng với yêu cầu câu đối của viên quan ấy. Tưởng lâm vào thế bí, hóa ra lại tìm được vế đối hay, khiến người Nguyên phải phục và liền mở cửa ải để đoàn sứ bộ của Mạc Đĩnh Chi qua biên giới.
[sửa] Tài ứng đối thứ hai
Tới kinh đô, Mạc Đĩnh Chi được vời vào tiếp kiến hoàng đế nhà Nguyên. Vua Nguyên đọc một câu đối đòi ông phải đối lại:
-
- Nhật: hỏa; vân: yên; bạch đán thiêu tàn ngọc thỏ.
- (nghĩa là: Mặt trời là lửa, mây là khói; ban ngày đốt cháy vầng trăng).
Mạc Đĩnh Chi hiểu rõ dụng ý tỏ vẻ kiêu ngạo của một nước lớn và cả mục đích đe dọa của vua Nguyên. Ông đã ứng khẩu đọc:
-
- Nguyệt: cung; tinh: đạn; hoàng hôn xạ lạc kim ô.
- (nghĩa là: Trăng là cung, sao là đạn; chiều tối bắn rơi mặt trời).
Vế đối rất chuẩn và tỏ rõ sự cứng rắn của người dân nước Việt, không run sợ và sẵn sàng giáng trả và làm thất bại kẻ thù.
Có thuyết nói rằng vì câu đối này của Mạc Đĩnh Chi, người phương Bắc đoán con cháu ông sau này sẽ làm việc thoán đoạt (ứng với hành động của Mạc Đăng Dung)
[sửa] Tài ứng đối thứ ba
Có lần Mạc Đĩnh Chi sang sứ đúng vào dịp người hậu phi của vua Nguyên mất. Lúc làm tế lễ, người Nguyên đưa cho Chánh sứ ta bài điếu văn viết sẵn, bảo đọc. Khi Mạc Đĩnh Chi mở giấy ra thì chỉ thấy viết có 4 chữ "Nhất" "-"(là một). Ông chẳng hề lúng túng, vừa nghĩ vừa đọc thành bài điếu văn:
-
- Thanh thiên nhất đóa vân
- Hồng lô nhất điểm tuyết
- Ngọc uyển nhất chi hoa
- Dao trì nhất phiến nguyệt
- Y! Vân tán, tuyết tiêu, hoa tàn, nguyệt khuyết!
Tạm dịch:
-
- Một đám mây giữa trời xanh
- Một bông tuyết trong lò lửa
- Một bông hoa giữa vườn thượng uyển
- Một vầng trăng trên mặt nước hồ
- Ôi! mây tản, tuyết tan, hoa tàn, trăng khuyết!
[sửa] Tài ứng đối thứ tư
Một lần Mạc Đĩnh Chi đến thăm phủ Thừa tướng nhà Nguyên. Trong phủ trang hoàng lộng lẫy, giữa phòng có treo một bức trướng to hình con chim sẻ đậu trên cành trúc trông rất thật. Mạc Đĩnh Chi ngỡ là chim sẻ thật đậu ngoài cửa sổ nên chạy đến chụp thì mới vỡ lẽ đó chỉ là bức hoạ. Thừa tướng và các quan quân nhà Nguyên đều phá lên cười và có ý châm chọc. Mạc Đĩnh Chi vội lấy bức họa xuống và xé toạc thành nhiều mảnh. Mọi người đều kinh ngạc. Bấy giờ ông mới nghiêm mặt giải thích: cành trúc tượng trưng cho người quân tử, chim sẻ chỉ kẻ tiểu nhân, vẽ chim sẻ đậu trên cành trúc là có hàm ý kẻ tiểu nhân lấn lướt người quân tử không hợp với đạo lý nên ông mới hủy nó đi. Thừa tướng ức vì mất bức trướng đẹp nhưng không thể cãi lý được.
Vua Nguyên cảm phục tài và đức của Mạc Đĩnh Chi. Khi hết hạn về nước, ông được vua Nguyên phong "Lưỡng quốc trạng nguyên" và chữ do chính tay hoàng đế nhà Nguyên viết.
[sửa] Tài liệu tham khảo
- Quốc Chấn (1988), Thần đồng xưa của nước ta. Nhà xuất bản Giáo dục, trang 128.
- Ngọc tỉnh liên phú
- Mạc Đĩnh Chi - một tấm gương
49 Trạng nguyên Việt Nam |
---|
Nguyễn Hiền | Trần Quốc Lặc | Trương Xán | Trần Cố | Bạch Liêu | Lý Đạo Tái | Đào Tiêu | Mạc Đĩnh Chi | Đào Sư Tích | Lưu Thúc Kiệm | Nguyễn Trực | Nguyễn Nghiêu Tư | Lương Thế Vinh | Vũ Kiệt | Vũ Tuấn Thiều | Phạm Đôn Lễ | Nguyễn Quang Bật | Trần Sùng Dĩnh | Vũ Duệ | Vũ Tích | Nghiêm Hoản | Đỗ Lý Khiêm | Lê Ích Mộc | Lê Nại | Nguyễn Giản Thanh | Hoàng Nghĩa Phú | Nguyễn Đức Lượng | Ngô Miễn Thiệu | Hoàng Văn Tán | Trần Tất Văn | Đỗ Tống | Nguyễn Thiến | Nguyễn Bỉnh Khiêm | Giáp Hải | Nguyễn Kỳ | Dương Phúc Tư | Trần Văn Bảo | Nguyễn Lượng Thái | Phạm Trấn | Đặng Thì Thố | Phạm Duy Quyết | Phạm Quang Tiến | Vũ Giới | Nguyễn Xuân Chính | Nguyễn Quốc Trinh | Đặng Công Chất | Lưu Danh Công | Nguyễn Đăng Đạo | Trịnh Huệ |