Phan Thanh Liêm
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Phan Thanh Liêm (1833-1896), còn gọi là Phan Liêm, hay Phan Tam, tự Thúc Thanh, con cụ Phan Thanh Giản, quê làng Bảo Thạnh, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre.
Sau khi cha mất, ông cùng em là Phan Tôn (1837-1893), tự Quý Tướng, chiêu tập nghĩa quân chống quân Pháp ở Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh. Sau đó chạy ra miền trung, rồi ra Bắc theo Nguyễn Tri Phương trấn giữ Hà Nội. Năm 1874, quân Pháp đánh Hà Nội, hai anh em ông bị Pháp bắt làm tù binh, sau hòa ước Giáp Tuất được trao trả cho triều đình. Về Huế hai ông được trọng dụng. Khoảng 1882-1995 làm Hàn Lâm viện tu soạn. Năm 1886,tháng 2, được vua Đồng Khánh phong làm khâm sai đại thần đi hiểu dụ nghĩa quân Nguyễn Duy Hiệu và Trần văn Dư ở Nam ngãi. Tháng 5, 1886, được bổ Tổng Đốc Thuận Khánh, cùng với Nguyễn Thân (1840-1914) trông coi khu vực phía nam. Cuối năm 1896 mất tại Huế.Có hai con trai là Phan Thanh Khải và Phan Thanh Khát, hai cháu họ là Phan Đôn Để, Phan Đôn Tuấn (con người em chết trước đó mấy năm).
Phần mộ hai ông Phan Liêm và Phan Tôn cùng được xây dựng trong chùa Trà Am, thôn Tư tây, xã Thủy An, Thành phố Huề hiện nay, cách chợ Đông ba khoảng 15 km, sát bên núi, mộ còn mộ chí bằng chữ Hán soạn sau khi ông Pham Liêm qua đời.