Rừng núi đá vôi
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Rừng núi đá vôi nói ở đây bao gồm các kiểu phụ thuộc kiểu rừng kín thường xanh và nửa rụng lá phân bố ở vành đai nhiệt đới trong điều kiện đặc biệt đất đá vôi.
Mục lục |
[sửa] Đặc điểm chung
Rừng thường có 2 tầng gỗ, tầng trên không liên tục, cao 15-20 m, có khi đến 25 m. Cây rừng mọc tương đối chậm, có rễ phơi trần ôm các tầng đá lớn và ăn sâu vào các khe nứt, thường gặp trên các sườn đá dốc đứng, các thung đá vôi có lớp đất mỏng.
[sửa] Tổ thành rừng
- Các ưu hợp thường gặp:
-
- Ưu hợp: Nghiến + Trai lý.
- Ưu hợp: Nghiến + Lòng mang + Chò nhai + Mạy tèo + Ô rô.
- Ưu hợp: Nghiến + Heo.
- Ưu hợp: Nghiến + Hoàng đàn + Kim giao.
- Tham gia tầng trên của các ưu hợp này có thể là Đinh thối, Vàng kiểng, Gội nếp, Sấu, Sâng, Lát hoa, Chò chỉ, Chò đãi,...
- Tầng dưới là Mạy tèo, Teo nông
[sửa] Phân bố
Loại hình rừng này phân bố tập trung ở các tỉnh: Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Cạn, Hà Giang, Tuyên Quang, Sơn La, Hòa Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa và một số đảo trong vịnh Bắc bộ: Cát Bà, Hạ Long.