Tông đồ Công vụ
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tân Ước |
---|
Sách Phúc âm |
Sách lịch sử
|
Các thư tín
|
Sách tiên tri |
Tông đồ Công vụ hay Công vụ các Sứ đồ được xem là một trong những cuốn sách thánh của Kitô giáo.
Sách Công Vụ được viết bằng một thể văn như thể văn các sách Phúc Âm, chủ yếu kể về các sự kiện, mặc dù trong đó cũng có chứa những sự dạy dỗ. Nói cách khác, chủ đề của sách là về sinh hoạt và phát triển của Hội Thánh đầu tiên, một chủ đề có liên hệ gần với các thư tín hơn là các sách Phúc Âm. Vì thế, vị trí của nó trong Kinh Thánh ngày nay nằm sau các sách Phúc Âm và trước các thư tín, là thích hợp.
1.Sách Công Vụ Các Sứ Đồ là tập hai của một bộ sách :
Mấy câu đầu của sách Công Vụ đề cập đến “sách thứ nhất” của tác giả, đó là sách Phúc Âm Lu-ca. Các tác phẩm cổ được chia thành “sách” cũng như thành “chương”, và rất có thể “sách” và “chương” này có nghĩa là một tác phẩm mà có hai phần. Chúng ta không thể xem xét những vấn đề tổng quát về sách Công Vụ mà không xét đến sách Phúc Âm Lu-ca và đặc biệt là bốn câu đầu của sách ấy, là những câu được xem là “Lời mở đầu” cho toàn bộ tác phẩm hai tập này. Về tác giả của tác phẩm, xin xem phần Dẫn nhập của sách Phúc Âm Lu-ca. Như được nêu ở đó dường như tác giả là người đồng hành với Phao-lô, là Lu-ca (CoCl 4:14). Trong các chương cuối của sách Công Vụ, câu chuyện thỉnh thoảng được thuật lại ở ngôi thứ nhất số nhiều: “Chúng ta tìm được các môn đồ rồi, bèn ở lại với họ bảy ngày” (21:4 xem 16:10-17, 20:5-21:18, 27:1-28:16). Giải thích tự nhiên nhất về vấn đề này cho rằng sách Công Vụ được viết bởi một người nào đó có tham dự vào một số các sự kiện này. Giả thuyết này đã bị phản đối, nhưng các phản đối này quan tâm đến các vấn đề về tính chính xác về mặt lịch sử của tác giả. Nếu như tác giả được thể hiện để trình bày một hình ảnh sai lệch về Phao-lô chẳng hạn, thì người ta ít có khả năng phán đoán rằng tác giả thực sự là một bạn đồng hành của vị sứ đồ này. Thật vậy, những lời phản đối này sẽ không đi ngược lại một sự nghiên cứu cẩn thận.
Về thời gian viết sách thì càng khó xác định hơn. Một lần nữa, như nêu ra trong phần Dẫn nhập sách Lu-ca, có hai giả thuyết chính: sách Công Vụ được viết vào những năm 60 trong thời gian Phao-lô bị tù ở Rô-ma, hoặc những năm 80 sau khi Phao-lô qua đời. Nhiều chi tiết trong các chương cuối sách Công Vụ gợi ý về giả thuyết thứ nhất. Có một điều, sách kết thúc với sự kiện Phao-lô (và độc giả của sách) đang chờ đợi kết quả của cuộc xử án tại Rô-ma. Sau một hơi dài mô tả về thỉnh cầu gởi đến Sê-sa và đó có vẻ hơi lạ, trừ phi ông thực sự đang đem đến cho độc giả sự “cập nhất”. Người ta cũng thấy một “sự sinh động” hoặc “sự gần gũi” trong những chương cuối sách, mà cho thấy tác giả đã dựa trên những ký ức chưa bị phai mờ. Nếu như những chi tiết này gợi ý thời gian viết sách là những năm 60, thì người ta cũng có thể dễ dàng giải thích chúng theo cách khác, và chúng ta buộc phải kết luận rằng cả hai giả thuyết về thời gian viết sách đều có thể có khả năng.
Trong nhiều thế kỷ việc sách được xem là sách “lịch sử” và vì thế tác giả là một “nhà sử học” dường như là có chứng cứ hiển nhiên, cho đến khi các nhà nghiên cứu Thánh Kinh nhận ra rằng trong nhiều nghĩa, sách Công Vụ và bốn sách Phúc Âm có thể được phân loại là các sách “thần học’. Không phải như lúc đầu được xem là đã viết những câu kể về sự kiện, các tác giả rõ ràng là đã có mục đích chia xẻ tin mừng và thuyết phục hoặc dạy dỗ người đọc các sách ấy. Gần đây, người ta quan tâm nhiều đến kỹ năng mà các tác giả này thể hiện trong cách “kể chuyện” và các nhà nghiên cứu Tân Ước đang cố gắng tập trung vào sách Công Vụ như là một tác phẩm văn học được biên soạn công phu chứ không phải là một “sách lịch sử khách quan và khô khan” về một mặt hay “sách thần học” về một mặt khác. Tất cả các phương pháp này nên được khẳng định, nhưng phải theo cách nhằm hỗ trợ lẫn nhau chứ không phải loại trừ lẫn nhau. Trong sách Lu-ca - Công Vụ, và trong các sách khác tạo thành quyển Thánh Kinh, thần học được căn cứ trên sự thật lịch sử.
2.Công Vụ Các Sứ Đồ là một sách lịch sử :
Trong thời hiện đại, người ta thường đặt nghi vấn về tính chính xác của sách Công Vụ Các Sứ Đồ, chủ yếu căn cứ trên sự hiểu sai sách này. Các học giả thế kỷ 20 có một thời tin rằng sách Công Vụ Các Sứ Đồ được viết rất trễ trong lịch sử Hội Thánh và rằng nó có vẻ là một nỗ lực tuyên truyền để che đậy và lấp liếm sự chia rẽ tồn tại giữa Hội Thánh người Do Thái theo Phi-e-rơ và Hội Thánh người ngoại quốc theo Phao-lô. Người ta tranh luận rằng đây là một hồi ức không hay cần được xoá bỏ. Mong khi có một vài vấn đề gây ra bởi việc du nhập những người ngoại quốc trong cái mà bắt đầu như là một phong trào trong Do Thái giáo, thì ngày nay người ta thừa nhận rằng sách Công Vụ Các Sứ Đồ giải quyết những vấn đề này một cách thẳng thắn, và rằng tác giả không xấu hổ khi tường thuật sự chia rẽ và những khó khăn trong Hội Thánh (xem ví dụ trong 15:36-41).
Một cách hiểu sai khác là về chân dung của Phao-lô trong sách Công Vụ. Chúng ta không thể mong sách Công Vụ đề cập đến mọi khía cạnh của tư tưởng Phao-lô như khi tìm thấy chúng trong các thư tín của ông; còn một hình ảnh đầy đủ về Phao-lô là điều chưa được thể hiện. Nhưng phải chăng hình ảnh mà Lu-ca thể hiện là khác với một Phao-lô thật? Bài phát biểu tại A-thên (chương 17;) thường được dùng trong một nỗ lực để chứng minh bức tranh của Lu-ca khác với “thực tế” như thế nào. Trong thư ICô-rinh-tô, Phao-lô viết rằng ông không có tài hùng biện, thì ở đây tại A-thên, một thành phố văn hoá và học thuật ông lại được mô tả là một nhà diễn thuyết và nhà triết lý xuất sắc. Hơn nữa, người ta cho rằng bài phát biểu biện hộ và hầu như tán thành việc thờ phượng thần tượng ngoại giáo, là điều mà một Phao-lô thật sẽ không bao giờ làm. Những điểm này cũng không đứng nổi dưới một sự xem xét kỹ lưỡng. Còn lâu mới được là một nhà diễn thuyết lý tưởng và thuyết phục, Phao-lô bị chế nhạo bởi những người A-thên đang nghe sứ điệp của ông, và Lu-ca ghi lại rằng chỉ có một nhúm người chịu nghe - khó lòng mà câu chuyện được kể để có ý gây ấn tượng trên độc giả của sách Công Vụ. Trong một đoạn khác, Phao-lô được tả vẽ là đã nói dài đến nỗi một người khi nghe ông nói đã ngủ gục (20:7-12)! Đối với thái độ “thông cảm” với vấn đề thờ phượng thần tượng ở A-thên, yếu tố này của bài phát biểu thực tế là một sự tấn công ngấm ngầm đối với sự thờ phượng thần tượng, chứ không phải là sự đồng tình. Điều này phù hợp với thái độ của Phao-lô khi ông đến thành phố này (xem 17:16 và bài tường thuật ở 17:16-34) cũng như thái độ của ông như được diễn tả trong các thư tín.
Cái mà chúng ta có thể gọi là “sự cố gắng rõ ràng” của tác phẩm của Lu-ca có khuynh hướng xác nhận chứ không phải phủ nhận niềm tin rằng sách Công Vụ có chứa lịch sử thật. Các vấn đề lớn cũng vậy. Có nhiều chi tiết lịch sử trong sách này, và việc sách này bao gồm những chi tiết lịch sử đã gợi ý một cách mạnh mẽ một nguồn thông tin đáng tin cậy. Chẳng hạn như, các chi tiết về mặt địa lý và sự sử dụng những tên người và tước hiệu trong Công Vụ ngày càng được đưa ra ánh sáng khi các nhà khảo cổ và sử học phát hiện và công bố nhiều chứng cứ cổ học. Danh sách dài có thể tìm thấy trong cuốn The Book of Acts in the Setting of Hellenistic History của C. Hemer (Mohr, 1989), chương 4 và 5. Sách Công Vụ Các Sứ Đồ không phải hoàn toàn không có những rối rắm về lịch sử (xem tường thuật trong 5:33-39 và những vấn đề khó giải quyết xung quanh chương 15 và thư Ga-li-lê), nhưng xét về toàn thể, sách công vụ đến với chúng ta như là một nguồn đáng tin cậy đối với thời gian và các sự kiện bao gồm trong đó.
3.Công Vụ Các Sứ Đồ là một sách thần học :
Tuy nhiên, có thể Lu-ca không phải là một nhà sử học dưới cái nhìn của người hiện đại về khái niệm này. Ông rõ ràng có một cảm xúc mạnh mẽ về chủ đề của mình, và mặc dù đây không phải là điều không mong đợi trong ý nghĩ xưa về những gì việc viết sử đòi hỏi, Lu-ca có thể được gọi là một nhà thần học cũng như một nhà sử học. Lướt qua toàn bộ hai sách của ông người ta có thể thấy thần học của ông. Các chủ đề mà có vẻ đặc biệt quan trọng khi nghiên cứu sách Công Vụ là công tác của Hội Thánh và sự phổ cập của việc giới thiệu sự cứu rỗi. Đức Thánh Linh đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong sách Công Vụ Các Sứ Đồ, và tác giả đã chịu khó để tỏ ra rằng sự mở rộng Hội Thánh đến người Sa-ma-ri và các dân ngoại không diễn ra theo sự khởi xướng của chính các Cơ Đốc nhân mà là bởi sự khởi động và sau đó uỷ thác và chuẩn nhận một cách ngoạn mục bởi Đức Thánh Linh.
Tuy nhiên, cần thừa nhận rằng Lu-ca không viết một cuốn sách về Đức Thánh Linh. Ông viết về sự lan tràn của Phúc âm, và ông mô tả vai trò trung tâm của Đức Thánh Linh trong công tác này. Vì thế, chẳng hạn, có thể ông đã kể cho chúng ta rất nhiều về những gì thực sự đã xảy ra cho các môn đồ tại ngày lễ Ngũ Tuần. Chúng ta rất tha thiết muốn có những câu chuyện về việc Đức Thánh Linh ngự vào lòng, có phải Ngài ngự thường xuyên hay không, việc Ngài ngự vào lòng người tín hữu đem lại thay đổi gì, v.v... Nhưng ông đã không ghi lại những điều này bởi vì đây không thuộc loại sách mà ông đang viết. Trọng tâm của ông không đặt vào việc thế nào sự đến của Đức Thánh Linh ảnh hưởng trên người tín đồ mà vào việc thế nào người ta có thể đến với những người hành hương Do Thái đến Giê-ru-sa-lem vào kỳ lễ vào thời ấy.
Lu-ca biết và trình bày các lẽ thật thần học về Đức Thánh Linh, vai trò của Chúa Giê-xu, sự ứng nghiệm các lời tiên tri Cựu Ước và khả năng chấp nhận tín hữu ngoại quốc ngoài qui định của luật pháp. Nhưng dù ông là một nhà thần học, chúng ta không được cho rằng sách của ông là sách về thần học hệ thống, và chúng ta phải cố gắng giảm bớt sự thất vọng của mình nếu như ông không thoả mãn được những tò mò của chúng ta, những độc giả của thế kỷ 20. Sự hiện diện của các tư tưởng và những mối quan tâm thần học không có nghĩa là chúng ta không thể tin cậy vào lịch sử được thể hiện trong sách. (Để tìm hiểu thêm về vấn đề này, xem Lu-ca: Nhà sử học và thần học của I. H. Marshall (Paternoster Press, 1988)).
4.Công Vụ Các sứ Đồ là một tác phẩm văn chương :
Tính văn chương của sách Lu-ca - Công Vụ được thể hiện trong hình thức của nó. Trong khi khó có hai nhà bình luận nhất trí hoàn toàn về bố cục của sách, thì tất cả đều nhìn nhận rằng nó đã được bố cục một cách có hiệu quả, ngay cả về mặt nghệ thuật. Qua cả hai tập (hai sách Lu-ca và Công Vụ), thành phố Giê-ru-sa-lem đóng vai trò là một “điểm tiếp xúc” nơi mà câu chuyện tiếp tục trở lại. Rõ ràng chúng ta thấy một phong trào đi từ dòng nước xoáy của Đế quốc La Mã tại Ga-li-lê đến xứ Giu-đê và thủ phủ Sê-sa-rê, và từ đó qua xứ Sa-ma-ri rồi từng bước tiến sang phần còn lại của Đế quốc La Mã cho đến khi Phúc âm đã được truyền ra đến tận chính thủ độ của đế quốc, là Rô-ma ở phần cuối sách Công Vụ. Đây là sự tiến triển có tính chất lịch sử, nhưng Lu-ca đã chọn lựa những câu chuyện, thậm chí sự tập trung có chủ ý vào một nhóm nhân vật này sang nhóm nhân vật khác, để nhấn mạnh phong trào này.
Lu-ca tả vẽ Phao-lô là đã giảng cho người Do Thái và người ngoại quốc cũng như đã khích lệ nhiều cộng đồng tín hữu. Tuy nhiên, chỉ thấy ghi lại có một bài giảng chính trong nhà hội (13:14-43), một cho một hội chúng người ngoại quốc (17:16-35 là bài giảng tương tự trong 14:14-17, nhưng không có quy mô lớn bằng) và một cho nhóm tín hữu (20:17-38). Vì vậy, trang sách có mỗi bài giảng tiêu biểu cho mỗi loại thính giả.
Sự chọn lựa và sắp đặt có chủ ý này khiến chúng ta đặt ra câu hỏi: Mục đích của tác giả khi viết là gì? Đã thấy bố cục và tính phức tạp của sách, chúng ta không thể đơn giản nói rằng: “Ông muốn ghi lại những gì đã xảy ra”. Sách Lu-ca và Công Vụ không đơn thuần là một sự miêu tả theo thứ tự thời gian và chắc chắn không phải là các tác phẩm hoàn chỉnh. Có quá nhiều điều còn thiếu để có thể đạt đến mục đích của Lu-ca.
Trái lại, sách Công Vụ Các Sứ Đồ có thể được xem là đang trả lời cho một câu hỏi phức tạp về Cơ Đốc giáo. Cơ Đốc giáo là gì? Nếu đó là một tôn giáo của người Do Thái thì tại sao tất cả những người Do Thái ra mặt chống đối và rất nhiều người ngoại quốc lại gia nhập nó? Nếu Cơ Đốc giáo là một tôn giáo hơn là một sự kiện xã hội, thì tại sao Giê-xu được gọi là “vua” và phong trào của Ngài được gọi là “vương quốc” - và tại sao có vẻ như nó làm dấy lên những cuộc rối loạn và bạo loạn?
Có lẽ những câu hỏi này nảy sinh như là kết quả trực tiếp của cuộc xử án Phao-lô tại Rô-ma, là vụ xử nêu lên những nét nổi bật trong phần ba của sách Công Vụ. Sách có lẽ quá dài và có quá nhiều chi tiết của nó chỉ có liên quan quá sơ sài để có thể được xem là một phần vụ xử của sự tự bào chữa, nhưng có thể nó đã được viết để trả lời những câu hỏi nảy sinh từ vụ xử ấy. Mục đích thuộc loại này đã làm cho các điểm nổi bật của sách Công Vụ trở nên có ý nghĩa: khởi đầu của Hội Thánh tại Giê-ru-sa-lem đến sứ mạng truyền giáo tại Rô-ma, sự nhấn mạnh các vị sứ đồ khác nhau và sự truyền bá Phúc Âm cũng như sự chống đối mà Phúc âm gặp phải. Nó cũng làm cho có ý nghĩa câu phát biểu của Lu-ca trong chương 1 của sách Phúc Âm Lu-ca - ông viết để làm rõ và giải thích những điều mà Thê-ô-phi-lơ đã nghe liên quan đến Chúa Cứu Thế Giê-xu và phong trào mà Ngài đã dấy lên.
5.Công Vụ Các Sứ Đồ dành cho ngày nay :
Lu-ca viết với một mục đích đương thời cụ thể và điều đó có thể khiến chúng ta bi quan khi tìm một cái gì trong sách Công Vụ thích hợp cho những tình huống trong thời hiện đại của chúng ta. Thận trọng vừa phải là một điều tốt. Công Vụ là một bản sứ đồ chỉ dẫn cách thực hiện việc truyền giáo hay cách để thành lập một Hội Thánh chứ không phải để chỉ cách hành động khi bạn gặp đe dọa trong cơn đắm tàu. Công Vụ thích hợp cho mọi người trong mọi hoàn cảnh và mọi nền văn hoá cho đến nay vì nó cung cấp những tấm gương thuộc linh và sự bảo đảm rằng dù sự việc có như thế nào thì Đức Chúa Trời cũng vẫn đang làm việc ở hậu trường, như Ngài đã ở với dân Ngài xưa kia. Chúng ta có thể học được rất nhiều từ sách Công Vụ Các Sứ Đồ về cách sống một đời sống Cơ Đốc, nhưng chúng ta phải thực hiện lối sống ấy bằng cách nghiêm túc tiếp nhận sách này và nắm bắt ý định của tác giả - và trước tiên học tập cách hiểu rõ giá trí của câu chuyện mà sách kể lại.
Sách Công Vụ Các Sứ Đồ không có ý muốn dạy chúng ta rằng mọi Cơ Đốc nhân phải làm những gì mà các vị anh hùng trong sách đã làm. Ngay cả Phao-lô, người mà quyền năng chữa lành trong phạm vi sách Công Vụ dường như rất lớn và không thể bị ngăn trở (19:11-12), cũng phải học biết rằng “quyền năng” ấy không phải là điều ông “có” hoặc có thể điều khiển (xem IICo 2Cr 12:1-10). Nhưng sách không bảo chúng ta xem thường quyền năng ấy. Đức Chúa Trời có thể sử dụng và đã sử dụng các tín hữu để hoàn thành những việc kỳ diệu.
Sách Công Vụ cũng cho chúng ta thấy rằng chúng ta đừng nghĩ bởi vì mình là Cơ Đốc nhân nên chúng ta có thể thoát khỏi những giới hạn con người như những bất đồng giữa vòng anh em (xem 15:2 và hội nghị sau đó, hay sự bất đồng giữa Ba-na-ba và Phao-lô và Giăng Mác trong 15:37-41). Chúng ta cũng không được hoàn toàn miễn khỏi tội lỗi và thói đạo đức giả (xem A-na-nia và Sa-phi-ra;, Cong Cv 5:1-11) cũng như sự đe dọa thực sự về việc đoán phạt.
Sách Công Vụ dạy chúng ta về chính mình và hoàn cảnh của chúng ta bằng gương của những nhân vật trong những hoàn cảnh của họ. Đây không phải là một cuốn sách chỉ tập trung vào những cuộc đời lý tưởng và những cộng đồng lý tưởng; mà đó là một cuốn sách rất “thực tế” theo nghĩa đen của từ này. Nhưng chủ nghĩa thực tế mà sách khuyến khích chúng ta là một thực tế của những sự kiện hàng ngày mà còn là nơi dân sự Đức Chúa Trời đang ở trên chiến tuyến của công tác mà họ được kêu gọi.