Triệu Đà
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Triệu Đà (tiếng Hán phồn thể: 趙佗, giản thể: 赵佗; 257 trước công nguyên - 137 trước Công Nguyên[1]), tức là Triệu Vũ Đế (趙武帝), Nam Việt Vũ Vương (南越武王) và Nam Việt Vũ Đế (南越武帝), làm vua nhà Triệu từ năm 203 trước Công Nguyên đến năm 137 trước Công Nguyên.
Mục lục |
[sửa] Gốc gác
Triệu Đà vốn người huyện Chân Định (真定), quận Hằng Sơn (恒山), đời nhà Tần (ngày nay là huyện Chính Định (正定), tỉnh Hà Bắc), Trung Quốc, là tướng cầm quân nổi tiếng đời nhà Tần, là người lập nên nước Nam Việt. Triệu Đà là vua thứ nhất và là hoàng đế thứ nhất của nước Nam Việt, trị vì khoảng từ năm 203 trước Công Nguyên đến năm 137 trước Công Nguyên, xưng là Nam Việt Võ Vương hay là Nam Việt Võ Đế.
[sửa] Sự nghiệp
[sửa] Bình định đất Lĩnh Nam
Sau khi thống nhất 7 nước, Tần Thuỷ Hoàng bắt tay bình định vùng đất Bách Việt ở Lĩnh Nam. Năm 219 trước Công Nguyên, Tần Thuỷ Hoàng sai Đồ Thư (屠睢, phiên tên theo Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim, các từ điển Hán-Việt hiện nay phiên là Đồ Tuy) làm chủ tướng, Triệu Đà làm phó tướng, chỉ huy 50 vạn quân đi bình định miền Lĩnh Nam. Đồ Thư tàn ác giết người vô tội, bị nhân dân nổi lên đánh lại và giết chết. Tần Thuỷ Hoàng lại sai Nhâm Ngao (壬嚣, tên ghi theo Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim, bản Wikipedia tiếng Hán và tiếng Anh ghi là 任嚣 và theo phiên âm Hán Việt của các từ điển Hán-Việt hiện nay là Nhậm /Nhiệm Hiêu) làm chủ tướng, cùng Triệu Đà chỉ huy quân lính đánh 4 năm cho đến năm 214 trước Công Nguyên mới hoàn thành bình định được Lĩnh Nam.
Theo đó, Tần Thuỷ Hoàng lập nên 3 quận là Nam Hải, Quế Lâm và Tượng quận, bổ Nhâm Ngao làm Quận úy quận Nam Hải. Nam Hải gồm 4 huyện Bác La, Long Xuyên, Phiên Ngung, và Yết Dương, trong đó huyện Long Xuyên có vị trí quan trọng nhất về địa lý và quân sự, được giao dưới quyền Triệu Đà làm Huyện Lệnh. Sau khi tới thủ phủ Long Xuyên (ngày nay là thị trấn Đà Thành huyện Long Xuyên) nhậm chức, Triệu Đà áp dụng chính sách "hoà tập Bách Việt" đồng thời xin Tần Thuỷ Hoàng di dân 50 vạn người từ Trung Nguyên đến vùng này, tăng cường chính sách "Hán Việt dung hợp" (hòa lẫn Hán và Việt).
[sửa] Ly khai nhà Tần
Tần Thuỷ Hoàng chết đi, Tần Nhị Thế nối ngôi, khởi nghĩa Trần Thắng, Ngô Quảng nổ ra năm 209 trước Công Nguyên, rồi tiếp theo là "Hán Sở tương tranh" giữa Lưu Bang và Hạng Vũ, trung nguyên vào cảnh rối ren loạn lạc. Năm 208 trước Công nguyên, quận uý Nam Hải là Nhâm Ngao bị bệnh nặng, trước khi chết cho gọi Triệu Đà đang tạm thời làm huyện lệnh Long Xuyên đến, dặn dò đại ý rằng: vùng đất Nam Hải có núi chắn, có biển kề, rất thuận lợi cho việc dựng nước và phòng thủ chống lại quân đội từ Trung nguyên (tức khu vực trung ương Trung Quốc) đánh xuống, và đồng thời chính thức bổ nhiệm Triệu Đà nối quyền cai trị quận Nam Hải.
Không lâu, Nhâm Ngao chết, Triệu Đà gửi lệnh đến quan quân các cửa ngõ Lĩnh Nam, canh giữ phòng chống quân đội Trung nguyên xâm phạm, và nhân dịp đó, giết hết những quan lại nhà Tần bổ nhiệm ở Lĩnh Nam, cho tay chân của mình thay vào những chức vụ đó.
[sửa] Chinh phục Âu Lạc, lên ngôi vua nước Nam Việt
Sử sách ghi chép không thống nhất về việc Triệu Đà đánh chiếm Âu Lạc, cả về cách đánh lẫn thời gian.
Sử Ký Tư Mã Thiên ghi chép vắn tắt rằng Triệu Đà dùng tài ngoại giao và đút lót mua chuộc các thủ lĩnh Âu Lạc mà thu phục nước này vào thời điểm "sau khi Lã hậu chết" (năm 180 TCN). Các sách giáo khoa tại Việt Nam đều thống nhất lấy thời điểm ước lệ này trong Sử Ký và lấy năm ngay sau 180 TCN là 179 TCN (Xem mục về Niên đại và tư liệu ở dưới).
Theo sử sách cổ của Việt Nam (Đại Việt Sử ký Toàn Thư, Khâm Định Việt sử Thông giám Cương mục) thì năm 208 TCN, Triệu Đà đánh thắng Âu Lạc của An Dương Vương, sáp nhập Âu Lạc vào quận Nam Hải. Để có chiến thắng này, trước đó Triệu Đà đã gả con trai là Trọng Thủy cho con gái An Dương Vương là Mỵ Châu để biết bí mật về bố phòng quân sự của Âu Lạc và mang quân sang đánh chiếm. Theo truyền thuyết, sau khi nghe tin Mỵ Châu bị An Dương vương giết, Trọng Thủy nhảy xuống giếng tự vẫn để trọn tình với vợ là Mỵ Châu.
Sau khi nhà Tần diệt vong, năm 203 trước Công Nguyên, Triệu Đà cất quân đánh chiếm hai quận Quế Lâm và Tượng, lập nên nước Nam Việt vùng Lĩnh Nam, tự xưng "Nam Việt Vũ Vương". Nước Nam Việt bấy giờ, bao gồm từ núi Nam Lĩnh (ngày nay là một giải từ bắc Quảng Đông, bắc Quảng Tây và miền nam vùng Giang Nam), phía tây đến Dạ Lang (bây giờ là Quảng Tây và phần lớn tỉnh Vân Nam), phía nam đến tận biển (ngày nay là miền bắc và miền trung Việt Nam), phía đông đến Mân Việt (ngày nay là miền nam tỉnh Phúc Kiến). Thủ đô nước Nam Việt lúc ấy là thành Phiên Ngung, là thành Quảng Châu ngày nay.
[sửa] Thần phục nhà Hán
Trải qua chinh chiến, Lưu Bang đã lập được chính quyền nhà Tây Hán, bình định trung nguyên, bao gồm cả thế lực thu phục được của Hạng Vũ. Lưu Bang quyết định không lấy chiến tranh đối phó với nước Nam Việt để dân chúng Trung nguyên khỏi mất người mất của sau bao năm loạn lạc. Năm 196 trước Công Nguyên, Hán Cao Tổ Lưu Bang sai quan đại phu Lục Giả đi sứ đến nước Nam Việt khuyên Triệu Đà quy phục nhà Hán.
Sách Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim chép:
- Vũ Vương vốn là người kiêu căng, có ý không muốn phục nhà Hán, đến khi Lục Giả sang đến nơi, vào yết kiến Vũ Vương, Vũ Vương ngồi xếp vành tròn, không đứng dậy tiếp. Lục Giả thấy vậy mới nói rằng: "Nhà vua là người nước Tàu, mồ mả và thân thích ở cả châu Chân Định. Nay nhà Hán đã làm vua thiên hạ, sai sứ sang phong vương cho nhà vua, nếu nhà vua kháng cự sứ thần, không làm lễ thụ phong, Hán đế tất là tức giận, hủy hoại mồ mả và giết hại thân thích của nhà vua, rồi đem quân ra đánh thì nhà vua làm thế nào?" Vũ vương nghe lời ấy vội vàng đứng dậy làm lễ tạ, rồi cười mà nói rằng: "Tiếc thay ta không được khởi nghiệp ở nước Tàu, chứ không thì ta cũng chẳng kém gì Hán Đế!"
Được Lục Giả khuyên, Triệu Đà chịu nhận ấn tước Nam Việt Vương (chúa đất vùng Nam Việt) của Hán Cao Tổ gửi, thần phục nhà Hán, làm Nam Việt thành một đất chư hầu của nhà Hán. Từ đó, Nam Việt và nhà Hán trao đổi sứ giả và buôn bán. Lưu Bang đã lấy hoà bình mà quy phục Triệu Đà, không còn mối lo thế lực chống đối nhà Hán ở miền nam nữa.
[sửa] Xưng đế chống Hán
Hán Cao Tổ Lưu Bang và Hán Huệ Đế Lưu Doanh chết đi, Lã Hậu nắm quyền, bắt dầu gây sự với Triệu Đà. Lã Hậu ra lệnh cấm vận với nước Nam Việt. Triệu Đà thấy Lã Hậu có thể qua nước Trường Sa (cũng là một nước chư hầu nhà Hán, ở phía bắc của Nam Việt, ngày nay nằm trong tỉnh Hồ Nam) mà thôn tính Nam Việt. Thế là Triệu Đà bèn tuyên bố độc lập khỏi nhà Hán, tự xưng "Nam Việt Võ Đế" và cất quân đánh nước Trường Sa, chiếm được mấy huyện biên giới của Trường Sa mới chịu thôi.
Lã Hậu bèn sai đại tướng Long Lự Hầu và Chu Táo đi đánh Triệu Đà. Quân lính Trung nguyên không quen khí hậu nóng nực và ẩm thấp miền nam, ùn ùn đổ bệnh, ngay dãy núi Nam Lĩnh cũng chưa đi qua nổi. Một năm sau, Lã Hậu chết, mưu đồ đánh Triệu Đà của quân nhà Hán bỏ hẳn.
Lúc đó Triệu Đà dựa vào tiếng tăm tài quân sự của mình lừng lẫy cả vùng Lĩnh Nam, lại nhờ tài hối lộ của cải, làm cả Mân Việt, Tây Âu, và Việt ùn ùn quy thuộc Nam Việt. Lúc ấy nước Nam Việt bành trướng đến mức cực thịnh. Triệu Đà bắt đầu lấy tên uy Hoàng Đế mà ra lệnh ra oai, thanh thế ngang ngửa đối lập với nhà Hán.
[sửa] Lại thần phục nhà Hán
Năm 180 trước Công Nguyên, Lã Hậu chết, Hán Văn Đế Lưu Hằng nối ngôi, sai người tu sửa mồ mả cha ông Triệu Đà, cắt đặt hàng năm đúng ngày thờ cúng, ban thưởng chức vụ và của cải cho bà con Triệu Đà còn ở trong đất Hán.
Nghe thừa tướng Trần Bình tiến cử, Lưu Hằng sai Lục Giả, người từng được Hán Cao Tổ sai sứ đi Nam Việt nhiều lần, làm chức Thái Trung Đại Phu, lại đi thuyết phục Triệu Đà quy Hán. Lục Giả đến Nam Việt, lại trổ tài thuyết phục Triệu Đà. Triệu Đà nghe thuyết phục phải trái hơn thiệt, quyết định bỏ danh hiệu Đế, quy phục nhà Hán, nhưng vẫn giữ tên "Nam Việt Vương."
Kể từ đó đến đời Hán Cảnh Đế, Triệu Đà một mực xưng thần, hàng năm cứ muà Xuân và mùa Thu, đều đưa đoàn sứ đến Trường An triều cống hoàng đế nhà Hán, chịu mệnh lệnh làm chư hầu nhà Hán. Tuy vậy, trong đất Nam Việt, Triệu Đà vẫn lấy danh hiệu Hoàng Đế.
Năm Kiến Nguyên thứ tư đời Hán Vũ Đế (137 trước Công Nguyên), Nam Việt Vương Triệu Đà chết, sống được ước chừng hơn trăm tuổi (theo Đại Việt Sử ký Toàn thư là 121 tuổi), chôn ở Phiên Ngung (thành phố Quảng Châu ngày nay).
Triệu Đà chết đi, con cháu tiếp tục được 4 đời vua Nam Việt, cho đến năm 111 trước Công Nguyên mới bị nhà Hán chiếm.
[sửa] Ảnh hưởng lịch sử
Triệu Đà từ năm 219 trước Công Nguyên làm phó soái của Tần Thuỷ Hoàng lĩnh chừng 50 vạn quân đi bình định Nam Việt. Suốt cho đến Hán Võ Đế Lưu Triệt năm thứ 4 (năm 137 trước Công Nguyên) thì chết, trị vì Lĩnh Nam tất cả 81 năm, ông ta luôn một mực thực hành chính sách "hoà tập Bách Việt," khiến cho các dân Hán và Việt tan lẫn vào làm một, mang văn hoá tiên tiến của trung nguyên đến cả một giải Nam Việt, làm Nam Việt được sự phát triển tốt hơn.
[sửa] Những địa điểm gắn với Triệu Đà
Thành phố Thạch Gia Trang (石家庄) ở tỉnh Hà Bắc: huyện lỵ Chính Định ở góc nam Thạch Gia Trang là nơi sinh của Triệu Đà, thời nhà Tần có tên là huyện Chân Định quận Hằng Sơn. Thị trấn Triệu Lăng Phu (赵陵铺镇) ở góc nam quận Tân Hoa (新华区) của thành phố Thạch Gia Trang có mộ tổ Triệu Đà do Hán Võ Đế đời Tây Hán xây để vỗ về Triệu Đà, ngày nay vẫn còn bia mộ.
Huyện Long Xuyên (龙川) tỉnh Quảng Đông: thời nhà Tần là huyện Long Xuyên quận Nam Hải (南海), nơi Triệu Đà làm quan huyện 6 năm sau khi bình định Lĩnh Nam. Nguyên trị sở huyện này được đặt tên là Đà Thành Trấn (佗城镇) để kỷ niệm Triệu Đà.
Thành phố Quảng Châu tỉnh Quảng Đông: thời nhà Tần là huyện Phiên Ngung (番禺) quận Nam Hải, thủ phủ quận Nam Hải, nơi Triệu Đà làm Quận Uý 4 năm. Sau khi Tần diệt vong, Triệu Đà vẫn lấy Phiên Ngung làm thủ phủ, lập nên nước Nam Việt. Phiên Ngung cũng là nơi chôn cất Triệu Đà.
[sửa] Niên đại và tư liệu
[sửa] Về thời gian thành lập nước Nam Việt
Những mốc năm tháng Triệu Đà lập nước Nam Việt đều không có sử sách ghi chép lại. Tư liệu ngày nay chỉ căn cứ vào cuốn "Sử Ký" của Tư Mã Thiên mà suy luận ra. Trước mắt có hai thuyết Triệu Đà lập nước Nam Việt: một thuyết cho rằng đó là năm 203 trước Công Nguyên (xin xem website Nhà Bảo Tàng các đồ vật trong mộ Vua Nam Việt đời Tây Hán), thuyết kia cho rằng vào năm 204 trước Công Nguyên (xin đọc cuốn "Nam Việt Quốc Sử" tức là "Sử nước Nam Việt" do Trương Vinh Phương, Hoàng Diểu Chương viết, nhà xuất bản nhân dân Quảng Đông, in năm 1995).
[sửa] Về thời gian chinh phục Âu Lạc
Như đã đề cập trong phần sự nghiệp của Triệu Đà, các nguồn tài liệu xưa không thống nhất về thời điểm nước Âu Lạc bị chinh phục. Giữa các sách cổ sử của Việt Nam (năm 208 TCN) và Sử Ký của Tư Mã Thiên (khoảng 179 TCN) chênh lệch nhau tới gần 30 năm. Không rõ các sử gia phong kiến Việt Nam căn cứ vào nguồn tư liệu nào và cũng không có sự lý giải, kết luận thỏa đáng của các sử gia đương đại đối với vấn đề này.
Các sách giáo khoa tại Việt Nam hiện nay căn cứ theo tư liệu của Sử ký để lấy năm 179 TCN. Có lẽ vì Sử ký ra đời chỉ một vài chục năm sau khi nước Nam Việt mất nên đây được coi là nguồn tài liệu đáng tin cậy hơn.
[sửa] Về cái chết của Trọng Thuỷ
Trọng Thủy là con trai Triệu Đà, không được Sử ký không đề cập đến. Tên Trọng Thủy chỉ được nhắc đến trong các sách sử và truyền thuyết của Việt Nam. Tuy nhiên, giữa các tài liệu này cũng có những điểm dị biệt.
Sử cũ theo cách nói của truyền thuyết về chuyện nỏ thần và việc làm rể của Trọng Thủy nhằm đánh cắp nỏ thần, quyết định việc mất còn của Âu Lạc. Đại Việt Sử ký Toàn thư chép y nguyên như truyền thuyết cho rằng sau khi chiếm được Âu Lạc, Thủy thấy vợ chết bèn chết theo. Tuy nhiên, cũng Đại Việt Sử ký Toàn thư, lại chép con Thủy là Hồ nối ngôi Triệu Đà năm 137 TCN, lúc chết năm 124 TCN mới 52 tuổi, tức là sinh năm 175 TCN, sau khi Thủy chết tới 33 năm! Như vậy các sử gia phong kiến đã lầm lẫn tình tiết này. Dù theo thuyết của Sử ký cho rằng Âu Lạc mất năm 179 TCN đi nữa thì khoảng cách giữa khi Thủy chết với thời gian Hồ sinh ra vẫn là 4 năm. Các nguồn tài liệu có nhắc đến Thủy (trừ Sử ký) đều nói Hồ là con Thủy và không nhắc đến người con trai nào khác của Triệu Đà. Do đó, việc các nhà nghiên cứu nghi ngờ Trọng Thủy chết theo vợ là hoàn toàn có cơ sở. Có lẽ đó là lý do khiến các sách Việt Sử tiêu án và Khâm định Việt Sử thông giám cương mục (viết sau Đại Việt Sử ký Toàn thư) chỉ nhắc tới việc Thủy làm rể mà không nhắc tới việc Thủy chết theo Mỵ Châu.
[sửa] Tham khảo
- Sử Ký của Tư Mã Thiên, quyển 113, Nam Việt Úy Đà Liệt Truyện, đời Tây Hán.
- Hán Thư của Ban Cố, quyển 95, Tây Nam Di Lưỡng Việt Triều Tiên Truyện, đời Đông Hán.
- "Nam Việt Quốc Sử" do Trương Vinh Phương, Hoàng Diểu Chương viết, nhà xuất bản nhân dân Quảng Đông, in năm 1995.
[sửa] Chú thích
- ▲ Năm sinh lấy theo sách Đại Việt Sử ký Toàn thư
Dữ liệu nhân vật | |
---|---|
Tên | Triệu Đà |
Tên khác | 赵佗 (chữ Trung Quốc); Triệu Vũ Đế; 赵武帝 (chữ Trung Quốc); Nam Việt Vũ Vương; 南越武王 (chữ Trung Quốc); Nam Việt Vũ Đế; 南越武帝 (chữ Trung Quốc) |
Tóm tắt | Vua nhà Triệu (203 TCN–137 TCN) |
Lúc sinh | ? |
Nơi sinh | |
Lúc mất | 137 TCN |
Nơi mất |