Ân điển
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Loạt bài Kitô giáo |
|
Thần học |
|
Kinh thánh |
|
Giáo hội |
|
Các phong trào |
|
Ân điển thiên thượng, theo quan điểm Cơ Đốc, là ân huệ của Thiên Chúa tể trị nhằm ban phước hạnh cho con người mà không phải vì bởi công đức của họ. Theo nghĩa rộng, ân điển thiên thượng được dùng để chỉ sự ban cho của Thiên Chúa dành cho loài người như sự sống, sự sáng tạo và sự cứu rỗi. Trong nghĩa hẹp và là ý nghĩa phổ biến hơn, ân điển được dùng để miêu tả những phương tiện giúp con người được cứu khỏi nguyên tội (tội tổ tông) và được ban cho sự cứu rỗi. Khái niệm này về ân điển là trọng tâm của Cơ Đốc giáo cũng như là vấn đề luôn gây tranh cãi trong vòng các giáo phái Cơ Đốc.
Mục lục |
[sửa] Các khái niệm về ân điển
Hầu hết tín hữu Cơ Đốc tin rằng con người nhận lãnh sự cứu rỗi qua ân điển của Thiên Chúa.
Đa phần tín hữu thuộc các giáo phái phương Tây đồng ý rằng loài người sinh ra trong tội lỗi. Đó là hậu quả của nguyên tội (tội tổ tông); một bản chất tội lỗi mang tính kế thừa; nó cũng là một phần trong điều kiện làm người. Theo truyền thống, nguyên tội được giải thích như là hậu quả của sự sa ngã của con người qua tội lỗi đầu tiên phạm phải bởi Adam và Eva trong vườn Eden. Một số người khước từ nhìn nhận sách Sáng thế ký là lịch sử, nhưng ngay cả những người này cũng đồng ý rằng con người sinh ra trong tội lỗi. Tình trạng ân điển nguyên thuỷ mà loài người đã từng được hưởng khi chưa sa ngã, là do Thiên Chúa dựng nên cho những con người đầu tiên và cho dòng dõi của họ. Chúng ta sinh ra đã mất quyền hưởng sự cứu rỗi. (Ngược lại, Chính thống giáo Đông phương không tán đồng giáo lý nguyên tội này).
Do vậy, ân điển của Thiên Chúa được ban cho khi con người đang bị nhấn chìm trong tình cảnh tuyệt vọng. Thiên Chúa, bởi ý Ngài, sai các tiên tri và thầy thông giáo đến để bày tỏ sự hiện hữu của Ngài cho nhân loại. Ngài ban kinh Torah, Luật pháp Môi-se cho người Do Thái và khiến họ trở nên tuyển dân của Ngài để cung ứng một hình mẫu đạo đức cho phần còn lại của nhân loại.
Cũng qua dân Do Thái mà Thiên Chúa sai con Ngài, Chúa Giê-xu Cơ Đốc, đến để gánh chịu tội lỗi của nhân loại qua khổ hình đóng đinh, sau đó ngài đã sống lại. Ân điển của Thiên Chúa được ban cho nhưng không. Thiên Chúa không có bổn phận phải cứu rỗi bất kỳ ai; con người cũng không có khả năng tự làm cho mình trở nên tốt đủ để có thể lên Thiên đàng. Chỉ bởi sự chuộc tội qua sự hiến tế của Chúa Cơ Đốc mà con người được cứu. Về phần mình, con người cần phải dự phần vào sự cứu chuộc ấy. Thật vậy, một số giáo phái Cơ Đốc đã diễn giải ân điển là “Phần thưởng của Thiên Chúa dành cho con người với cái giá mà Chúa Cơ Đốc phải trả”.
Trong thư gởi cho người Êphêsô, sứ đồ Phao-lô đã làm sáng tỏ vấn đề này, “Ấy là nhờ ân điển, bởi đức tin mà anh em được cứu, điều đó không phải đến từ anh em, bèn là sự ban cho của Thiên Chúa. Ấy chẳng phải bởi việc làm, hầu cho không ai khoe mình” (Êphêsô 2.8,9).
Ấy là bởi ân điển của Thiên Chúa mà sự cứu rỗi được ban cho con người, miễn là chúng ta chịu tin nhận Chúa Giê-xu Cơ Đốc là Chúa và Cứu Chúa, ấy là tin rằng Chúa Giê-xu đến từ Thiên Chúa, ngài là đấng Messiah (Messiah nghĩa là đấng chịu xức dầu, trong tiếng Hebrew nghĩa là Chúa Cơ Đốc), tin rằng ngài chết trên thập tự giá để cất bỏ tội lỗi khỏi chúng ta, như thế khiến chúng ta trở nên vô tội trong mắt của Thiên Chúa. Do vậy, ân điển là định ý và sự chọn lựa của Thiên Chúa muốn ban sự cứu rỗi cho con người.
[sửa] Khái niệm về ân điển trong Kinh Thánh
[sửa] Kinh Thánh Hebrew
Từ chesed trong tiếng Hebrew được Kinh Thánh của người Do Thái dùng để chỉ ân điển có nghĩa là lòng nhân từ. Khái niệm căn cốt này đặt trọng tâm vào lòng thuỷ chung và tính nhẫn nại là những đức hạnh cần thiết để duy trì mối quan hệ theo giao ước, mặc cho sự sa ngã thường xuyên bởi con dân của giao ước mà Kinh Thánh Hebrew là lời chứng cho giao ước này, tức là giao ước được thiết lập giữa Thiên Chúa và tuyển dân của Ngài.
Các khái niệm khác được dùng trong Kinh Thánh Hebrew để miêu tả ân điển của Thiên Chúa là một nhóm từ có nguyên tố căn bản là hanam, nghĩa là tình yêu tự nguyện; và haram, ngụ ý sự thương xót và lòng trắc ẩn, bao hàm một hành động khởi phát từ lòng thương xót mà phục hồi mối quan hệ đã bị phá vỡ. Tất cả những khái niệm này đều được các tiên tri của dân tộc Do Thái sử dụng để miêu tả sự chọn lựa của Thiên Chúa dành cho dân Israel như là tuyển dân của ngài và lòng nhẫn nại khiến Ngài không hề lìa bỏ họ mặc dù dân tộc này thường xuyên vi phạm giao ước.
[sửa] Tân Ước
Từ ân điển trong Tân Ước được dịch từ tiếng Hi Lạp charis, nghĩa là “sự ban cho”. Chúa Giê-xu không dùng từ này nhưng trong Phúc âm Lu-ca và Phúc âm Giăng, từ này thường được dùng chỉ riêng cho ngài. Tuy vậy, qua các câu chuyện ngụ ngôn của Chúa Giê-xu được ký thuật trong các sách phúc âm có thể nhận thấy Chúa Giê-xu đã giảng dạy khái niệm về ân điển. Hơn nữa, ngài cũng nhấn mạnh rằng ân điển là sự ban cho, là đặc ân của Thiên Chúa.
Dụ ngôn Người làm công trong vườn nho, Mathiơ 20.1-16[1], kể về một chủ vườn nho (theo cách giải thích truyền thống của Cơ Đốc giáo, là biểu trưng cho Thiên Chúa) thuê mướn một số người làm việc cho mình từ lúc sáng sớm, sau đó lại thuê thêm một số nữa, rồi vào lúc chỉ còn một giờ đồng hồ là kết thúc ngày làm việc, ông chủ lại thuê thêm một số người làm công là những người chờ đợi suốt ngày không được ai thuê mướn, rồi thì ông trả cho mỗi người số tiền công bằng nhau. Khi những người làm công suốt cả ngày tỏ vẻ bất bình, chủ vườn giải thích với họ rằng, “Ta há không có phép dùng của cải ta theo ý muốn ta sao?....... Những kẻ rốt sẽ trở nên đầu và kẻ đầu sẽ trở nên rốt là như vậy”. (Mathiơ 20.15-16).
Tương tự, câu chuyện nổi tiếng Người con trai hoang đàng được ký thuật trong Lu-ca 15. 11-32[2], theo cách hiểu của hầu hết tín hữu Cơ Đốc, hàm chứa sự dạy dỗ của Chúa Giê-xu về ân điển. Một người con trai đòi phần mình trong của thừa kế để rồi tiêu xài hoang phí cho đến đồng xu cuối cùng. Sau khi sống trong sự khốn khổ, người con liều trở về nhà mà không dám mong đợi ân huệ của cha mình. Song, người cha đã mừng rỡ chào đón đứa con hoang đàng trước sự bất bình của con trai trưởng, người vẫn luôn kề cận và tận tuỵ hầu việc ông.
Suốt trong dòng lịch sử Cơ Đốc giáo, nhiều người nắm bắt được sợi chỉ xuyên suốt các câu chuyện kể này của Chúa Giê-xu: Ấy chính là ân điển của Thiên Chúa đã làm đảo lộn mọi ý niệm cố hữu của con người về công đức, về điều mà họ cho là mình xứng đáng được hưởng, và về những gì mà họ tin là phần thưởng dành cho những nỗ lực của họ.
[sửa] Hai khía cạnh của ân điển
Tân Ước trình bày hai phương diện của ân điển. Một mặt, ân điển được ban cho từ Thiên Chúa để tha thứ mọi tội lỗi, mặt khác ân điển không giải thoát con người khỏi trách nhiệm phải sống ngay thẳng. Chúa Giê-xu đã nói:”Các ngươi đừng tưởng ta đến để phá bỏ luật pháp hay lời tiên tri; Ta đến không phải để phá song để làm cho trọn. Vì ta nói thật cùng các ngươi, đang khi trời đất chưa qua đi thì một chấm một nét trong luật pháp cũng không qua đi được cho đến khi mọi sự được trọn. Vậy, ai huỷ một điều cực nhỏ nào trong những điều răn này, và dạy người ta làm như vậy, thì sẽ bị xưng là cực nhỏ trong nước thiên đàng. Vì ta phán cùng các ngươi rằng, nếu sự công bình của các ngươi không trổi hơn sự công bình của các thầy thông giáo và người dòng Pha-ri-si, thì các ngươi chắc không vào nước thiên đàng.” Mathiơ 5.17-20
Về sau Phao-lô cũng viết:”Ấy là nhờ ân điển, bởi đức tin, mà anh em được cứu, điều đó không phải đến từ anh em, bèn là sự ban cho của Thiên Chúa. Ấy chẳng phải bởi việc làm đâu, hầu cho không ai khoe mình”. Êphêsô 2.8-9. Theo Phao-lô, sự cứu rỗi, cũng giống tiền công người chủ cho những người làm công trong chuyện ngụ ngôn kể trên, là sự ban cho của Thiên Chúa, là đặc ân của ngài. Nếu con người làm nên sự cứu rỗi bởi công đức của mình, con người có thể kiêu hãnh vì nhờ gắng công mà trở nên thánh khiết. Khi ấy, ân điển của Thiên Chúa ban cho sẽ không còn giá trị so với những nỗ lực của con người. Song, điều này đối nghịch với sự dạy dỗ trong Kinh Thánh (La Mã 2. 6):
“Thiên Chúa là đấng báo trả cho mọi người tuỳ theo việc họ làm: ai bền lòng làm lành, tìm sự vinh hiển, sự tôn trọng và sự chẳng hề chết, thì báo cho sự sống đời đời; ai có lòng chống trả, không vâng phục lẽ thật mà vâng phục sự không công bình, thì báo cho họ sự giận và cơn thạnh nộ. Sự hoạn nạn khốn khó giáng cho mọi người làm ác, trước cho người Giu-đa (Do Thái), sau cho người ngoại bang; nhưng sự vinh hiển, tôn trọng cùng sự bình an cho mọi người làm lành, trước cho người Giu-đa (Do Thái), sau cho người ngoại bang. Vì Thiên Chúa chẳng vị nể ai đâu”.
Ở đây, Phao-lô đả phá nỗ lực của những người trong giáo hội tiên khởi chịu ảnh hưởng Do Thái giáo. Họ dạy rằng những người không phải Do Thái mới theo đạo buộc phải tuân giữ luật pháp của Môi-se thì mới được cứu. Phao-lô giảng giải rằng được cứu rỗi là do ân điển, không phải bởi việc làm. Mặt khác, các sứ đồ lãnh đạo hội thánh - Phao-lô, Phi-e-rơ, Giăng và Gia-cơ - dạy rằng bởi tình yêu và lòng tuân phục dành cho Thiên Chúa là đấng ghi khắc luật pháp vào lòng tín hữu, họ cần tiếp tục làm việc lành và tuân giữ luật pháp của Chúa Cơ Đốc. Trong khi công đức và tuân giữ luật pháp (của Môi-se) không còn là nền tảng cho sự cứu rỗi, tín hữu vẫn phải thể hiện đức tin trong cuộc sống Cơ Đốc và tuân phục mạng lịnh Thiên Chúa.
Một câu chuyện kể của Chúa Giê-xu được chép trong Phúc âm Mathiơ 25 có thể giúp làm sáng tỏ vấn đề. Một ông chủ trước khi đi xa, gọi các tôi tớ đến mà phó thác tài sản của mình. Một người được giao năm ta lâng (đơn vị tiền tệ của người Do Thái thời ấy), người kia hai, người khác một, tuỳ theo khả năng của mỗi người. Khi chủ đi vắng, người nhận năm ta lâng và người nhận hai ta lâng dùng số tiền ấy để đầu tư và làm chúng tăng gấp đôi trong khi người được giao một ta lâng đem tiền chôn xuống đất. Khi chủ trở về, hai người đầu đem nộp lại cho chủ số tiền đã sinh lợi. Chủ nói: “Tốt lắm, các ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ lập các ngươi coi sóc nhiều; hãy đến hưởng sự vui mừng của chúa ngươi”. Nhưng đối với tôi tớ thứ ba, tức là người đã chôn giấu số tiền được giao, chủ tức giận mà nói rằng:”Hỡi đầy tớ dữ và biếng nhác kia! Sao ngươi không đưa bạc của ta cho người buôn bạc, rồi khi ta trở về, sẽ lấy vốn và lời. Vậy, hãy lấy ta lâng của người này mà cho người có mười ta lâng. Vì sẽ cho thêm kẻ nào đã có, thì họ sẽ dư dật; nhưng kẻ nào không có, thì cũng cất luôn điều họ có nữa. Còn tên đầy tớ vô ích này, hãy quăng ra ngoài là chỗ tối tăm, ở đó sẽ có khóc lóc và nghiến răng”.
Câu chuyện kể giúp chúng ta hiểu được sự hài hoà giữa ân điển và việc làm. Tất cả tôi tớ đều nhận lãnh tiền từ tay chủ, người chủ đã giao cho họ tiền bạc của mình. Vì vậy, không ai trong vòng họ có thể kiêu hãnh về số tiền mình đang giữ, như lời của Sứ đồ Phao Lô, chúng ta được cứu bởi ân điển, không phải bởi việc làm, để không ai có thể khoe mình. Dù vậy, những người này phải có trách nhiệm sử dụng món quà ân điển thế nào để làm sáng danh Thiên Chúa. Không chịu làm điều ấy là tội lỗi, như lời của Gia-cơ,”Đức tin không có việc làm thì chết”.
[sửa] Theo dòng lịch sử
Vào cuối thời kỳ Tân Ước, hội thánh trải qua nhiều thay đổi trong mối quan hệ với bối cảnh xã hội và với Đế quốc La Mã, cơ cấu quyền lực bao trùm lên toàn lãnh thổ trên đó phong trào Cơ Đốc đang phát triển. Những thay đổi này đem hội thánh ra khỏi giai đoạn bị bách hại và bị nhìn xem là một mối đe doạ thường trực để bước vào một thời kỳ mới khi Hoàng đế Constantine ra lệnh chấm dứt các cuộc bách hại và nhìn nhận Cơ Đốc giáo là một tôn giáo hợp pháp. Hơn nữa, Hoàng đế La Mã còn tích cực quan tâm đến phương cách điều hành giáo hội, ông triệu tập Công đồng Nicea (công đồng đầu tiên của giáo hội) để giải quyết những bất đồng thần học về học thuyết Arius. Nhiều sử gia tin rằng hoàng đế muốn khuyến khích sự hiệp nhất trong hội thánh vì tin rằng điều này sẽ giúp bảo toàn sự thống nhất của đế quốc.
Lịch sử Cơ Đốc giáo trong giai đoạn này là một sự đảo ngược của số phận. Không còn là một thiểu số bị khước từ, cộng đồng Cơ Đốc đang nắm trong tay một sức mạnh chính trị. Giới cầm quyền quan tâm đến việc chọn lựa các nhà lãnh đạo hội thánh. Hoàng đế thì can thiệp để giải quyết những bất đồng của giáo hội. Nhiều người ngoại đạo, nhận thấy thiện cảm hoàng đế dành cho hội thánh, mau chóng xếp hàng xin gia nhập.
Đây là lúc bắt đầu thời kỳ suy tàn của Đế quốc La Mã như là một thực thể quyền lực thống nhất. Xuất hiện sự chia rẽ văn hoá giữa Đế quốc La Mã phương Đông sử dụng ngôn ngữ Hi Lạp và Đế quốc La tinh ở phương Tây. Cũng xuất hiện những phân cách quan trọng về kinh tế và quân sự giữa phương Đông tương đối thịnh vượng và phương Tây khá là tả tơi. Tình trạng bất đồng này dẫn đến sự sụp đổ của Đế quốc La tinh trong vòng gần hai trăm năm. Biến cố này cũng ảnh hưởng đến vận mệnh của Cơ Đốc giáo.
Sự thay đổi trong mối quan hệ với Đế quốc La Mã và với giới cầm quyền cũng làm thay đổi trọng tâm của các học thuyết của hội thánh. Khi hội thánh còn là một cộng đồng bị đặt ngoài vòng pháp luật, các tác phẩm của họ tập chú vào tính hợp pháp luận bàn về sự tự do của tín hữu Cơ Đốc trong khung cảnh của một xã hội không Cơ Đốc rộng lớn hơn. Khi giáo hội trở nên một định chế đầy quyền lực và đang tiếp nhận nhiều đặc ân của chính quyền, trong thực tế là một công cụ của Đế quốc, xem ra điều quan trọng hơn đối với họ trong lúc này là cần tập chú vào nguy cơ mà thuyết vô luật pháp (antinomianism) gây ra, nhằm chống đỡ thẩm quyền của giáo hội trong một đế quốc đang dần tan rã.
[sửa] Cơ Đốc giáo phương Tây
Theo Cơ Đốc giáo phương Tây, ân điển là sự nhân từ của Thiên Chúa dành cho loài người. Ân điển là đặc ân của Thiên Chúa. Không ai có thể dành được hoặc xứng đáng hoặc có thể dùng công đức mà đổi lấy ân điển. Không ai có quyền đòi hỏi ân điển. Ân điển là món quà siêu nhiên Thiên Chúa ban cho loài người để họ nhận lãnh sự cứu rỗi vĩnh cữu. Sự cứu rỗi vĩnh cữu tự nó là phước hạnh của thiên đàng vì được ở trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Trong ba ý niệm nền tảng - tội lỗi, sự cứu chuộc, và ân điển – ân điển là phương tiện, được thiết lập bởi Thiên Chúa, để đem đến cho con người sự cứu chuộc khỏi tội lỗi qua Chúa Cơ Đốc hầu con người hưởng sự sống vĩnh cữu trên thiên đàng.
Ân điển là món quà siêu nhiên của Thiên Chúa mà chúng ta cần có để có thể nhận lãnh sự cứu rỗi đời đời gồm có ân điển thánh hóa, các phẩm hạnh, các ân tứ của Chúa Thánh Linh và ân điển hiện thực. Ân điển có hai hình thức, Ân điển hiện thực và Ân điển thánh hoá.
Ân điển hiện thực là sự soi sáng nhất thời tâm trí hoặc củng cố sức mạnh ý chí để thực hiện các hành động siêu nhiêu nhằm giúp chúng ta đạt được, duy trì hay tăng trưởng trong ân điển thánh hoá. Ân điển thánh hoá là tình trạng siêu nhiên lan toả trong linh hồn nhằm giúp chúng ta dự phần vào sự sống thiên thượng, ngụ ý sự hiện diện của Chúa Thánh Linh, đấng ngụ cư trong lòng tín hữu. Khi chúng ta phạm trọng tội, Chúa Thánh Linh sẽ rời bỏ chúng ta và chúng ta sẽ đánh mất ân điển thánh hoá.
[sửa] Ân điển và Công đức
Cơ Đốc giáo phương Tây, đặc biệt là Công giáo, tin rằng ân điển của Thiên Chúa ban cho con người theo ý ngài, được ví sánh như một loại tiền tệ thuộc linh mà giáo hội là ngân hàng tồn trữ. Tín hữu nhận lãnh ân điển bằng cách tham dự các thánh lễ (sacrament) của giáo hội. Khái niệm cho rằng các thánh lễ có tác dụng chuyển tải ân điển Thiên Chúa dẫn đến việc cần có hàng giáo phẩm được truyền chức bởi giáo hội để cử hành thánh lễ. Ân điển được nhận lãnh qua thánh lễ giúp dẫn dắt tín hữu vào cuộc sống cao đẹp hơn cũng như giúp sâu nhiệm hoá đức tin. Thêm vào cho ân điển thánh hoá là công đức có được bởi các việc lành; bởi công đức này, tín hữu có quyền nhận lãnh sự ban thưởng từ Thiên Chúa.
Ngược lại, tội lỗi làm nghèo số lượng công đức chúng ta có trước Thiên Chúa và khiến chúng ta mắc nợ ngài trong nền kinh tế thần thánh (divine economy). Các trọng tội không chỉ xoá hết công đức mà còn dập tàn ân điển thánh hóa trong linh hồn các tín hữu đã chịu rửa tội (báp têm), vì vậy những người này cần được nhận thánh lễ ăn năn (penance) trong khi những tội nhẹ hơn chỉ làm sút giảm phần công đức. Người mang tội trọng phải xuống hỏa ngục; người không đủ công đức để lên thiên đàng thì vào Ngục luyện tội, nơi đó họ vẫn còn có cơ hội được xoá hết tội lỗi mà họ nợ Thiên Chúa.
May mắn là các vị thánh có quá nhiều công đức tích luỹ trong suốt cuộc đời của họ khi sống trên thế gian, nên khi vào Thiên đàng các vị này vẫn còn phần thặng dư. Giáo hội có thể dành phần công đức thặng dư cho tội nhân sám hối. Năm 1343, Giáo hoàng Clement VI công bố khái niệm này trở thành giáo lý của Giáo hội Công giáo La Mã.
[sửa] Cơ Đốc giáo phương Đông
Tại phương Đông, Cơ Đốc giáo nhìn xem ân điển là năng lực của Thiên Chúa, hoặc là sự thể hiện quyền năng của Thiên Chúa để tha thứ và chữa lành tâm linh con người. Các thánh lễ (sacrament) là “phương tiện của ân điển” bởi vì Thiên Chúa chỉ hành động qua hội thánh. Ân điển là hành động do chính Thiên Chúa thể hiện, không phải là một thực thể được tạo dựng, nên không thể được xem là một loại hàng hoá. Không có sự phân biệt giữa tội đáng chết và tội không đáng chết, không có giáo lý Ngục luyện tội (chỉ xuất hiện ở phương Tây sau cuộc Đại Ly giáo xảy ra vào thế kỷ 11), cũng không có “sự tồn trữ công đức thặng dư”. Thay vào đó, các giáo hội phương Đông nhấn mạnh vào vai trò của Chúa Thánh Linh trong đời sống Cơ Đốc và duy trì nếp sống khổ hạnh như kiêng ăn và bố thí, không phải là cách thức bày tỏ sự ăn năn hối cải về tội lỗi đã phạm, cũng không phải để tích luỹ công đức, nhưng là một biện pháp kỷ luật tâm linh nhằm giúp ngăn giảm tội lỗi trong tương lai, giúp tự chủ bản thân và tránh bị bắt phục bởi dục vọng.
[sửa] Cải cách Kháng Cách
Trước khi đề cập đến những phê phán của Cuộc Cải cách Kháng Cách đối với ý niệm cho rằng ân điển là một loại tiền tệ tâm linh, cần phải lưu ý đến những lợi ích của ý niệm này. Ý niệm đã giúp gây dựng giáo hội bằng cách cung cấp cho con người sự dạy dỗ tỏ tường rằng mọi hành động phục vụ giáo hội sẽ được ban thưởng bởi Thiên Chúa. Nó cũng nhấn mạnh đến hậu quả tàn khốc của tội lỗi, cùng lúc bảo đảm rằng các thánh lễ của giáo hội có giá trị tha thứ tội lỗi phạm phải sau khi chịu rửa tội và giúp dẫn dắt tín hữu trở về với ân điển.
Trong khi đó, cũng cần xét xem khái niệm cho rằng ân điển là một loại tiền tệ tâm linh có phù hợp với sự dạy dỗ của Tân Ước hay không. Có thể thấy giáo lý này đôi khi đã trở thành đối tượng của một vài lạm dụng.
Nguyên nhân trực tiếp khiến Martin Luther treo 95 luận đề trên cửa nhà thờ Wittenberg năm 1517 là tư tưởng tuân giữ thánh lễ cách máy móc và giáo lý tồn trữ công đức của giáo hội thời trung cổ. Hành động này được đẩy nhanh hơn khi Johann Tetzel đến thành phố Wittenberg, được phép của Vatican, rao bán chứng chỉ xá tội (indulgences).
Sự linh nghiệm của chứng chỉ xá tội đã được khẳng định dựa trên giáo lý về tồn trữ ân điển được công bố bởi Giáo hoàng Clement VI, cho rằng công đức có được bởi những hành động xuất phát từ lòng sùng tín sẽ làm gia tăng số lượng ân điển được tích luỹ. Hành động khởi phát từ lòng sùng tín là những đóng góp dành cho giáo hội. Hơn nữa, giáo hội đã tích luỹ số lượng ân điển vượt quá nhu cầu cần có để đem tín hữu vào thiên đàng. Vì vậy, giáo hội muốn chia sẻ phần thặng dư của mình để nhận lại vàng bạc thế gian. Sự giận dữ của Martin Luther khi ông chống lại quan điểm này – đối với Luther, điều này chẳng khác gì buôn bán sự cứu rỗi – là sự trở lại với quan điểm thần học về ân điển của Phao-lô.
Theo lời dạy của Luther, khi đối diện với sự công chính tuyệt đối của Thiên Chúa, con người bị đặt trong tình trạng hoàn toàn tuyệt vọng và vô phương biện hộ. Nếu Thiên Chúa chỉ có đức công bình mà không có lòng thương xót, mọi người đều phải chịu trừng phạt nơi hoả ngục. Bởi vì tất cả mọi người, ngay cả những người tốt nhất, cũng chỉ xứng đáng chịu đoạ đày nơi địa ngục. Con người không có khả năng đạt được sự cứu rỗi bằng nỗ lực của chính mình, vì ngay cả những ý định cao quý nhất của con người cũng bị vấy bẩn bởi bản chất tội lỗi. Học thuyết này còn được gọi là sự sa ngã hoàn toàn (total depravity), một thuật ngữ đến từ học thuyết Calvin.
Ấy là chỉ bởi đức tin (sola fide) và chỉ bởi ân điển (sola gratia) mà con người được cứu. Việc lành là hành động khởi phát từ lòng biết ơn hướng về Cứu Chúa (Savior); việc lành không phải là điều kiện để được cứu, càng không thể làm cho con người được cứu rỗi. Vì vậy, trong thần học về sự cứu rỗi của Luther không có chỗ cho ý niệm công đức. Chỉ có ân điển của Thiên Chúa mới cứu được con người, không phải bởi công đức cũng không phải bởi nỗ lực của con người. Không ai có thể cho rằng mình có quyền hưởng ân điển của Thiên Chúa. Ấy chỉ bởi lòng độ lượng của Thiên Chúa mà con người được cứu rỗi.
Đối nghịch với học thuyết tồn trữ ân điển - theo đó tín hữu có thể sử dụng ân điển từ kho tồn trữ - sự cứu rỗi theo nền thần học Luther khởi đầu bằng sự công nhận tình trạng phá sản tâm linh, người ăn năn tội phải thừa nhận sự bất lực hoàn toàn của mình để tin cậy vào Thiên Chúa mà được cứu, và nhận biết rằng sự đoán phạt dành cho tội lỗi của mình đã được cất bỏ bởi vì Chúa Giê-xu đã trả giá cho điều đó bằng huyết của ngài. Nhờ vậy mà sự công chính của Chúa Giê-xu được dành cho những ai thuộc về ngài.
[sửa] Liên kết ngoài
- Articles on Grace từ Monergism.com
- Book on Divine Guidance từ lulu.com (Seeking Divine Guidance)
- Grace After Salvation từ GraceForLife.com
- Grace at WikiChristian