Đô đốc
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Đô đốc trong tiếng Việt ngày nay là quân hàm của sĩ quan cao cấp trong nhiều lực lượng Hải quân các quốc gia.
Một số quốc gia còn chia quân hàm này thành quân hàm Đô đốc Hạm đội hoặc Thủy sư Đô đốc và Đô đốc (Admiral). Quân hàm Đô đốc Hạm đội (Fleet Admiral ở Mỹ, Admiral of the Fleet ở Anh) là quân hàm cao nhất trong hải quân, tương đương hàm Thống tướng, Thống chế hay Nguyên soái. Tuy nhiên, trong nhiều quốc gia, quân hàm Đô đốc là quân hàm cao nhất của lực lượng hải quân, tương đương Đại tướng.
Trong Hải quân Nhân dân Việt Nam, quân hàm này tương đương Thượng tướng. Quân hàm Đô đốc được quy định lần đầu tiên trong luật ban hành ngày 31 tháng 12 năm 1981.
Các quân hàm tương đương cấp tướng, dưới hàm Đô đốc gồm có
- Phó Đô đốc (Vice Admiral), tương đương Trung tướng
- Chuẩn Đô đốc (Rear Admiral), tương đương Thiếu tướng
Ở một số quốc gia, người ta còn chia hàm Chuẩn Đô đốc thành:
- Đề đốc (Rear Admiral), tương đương Thiếu tướng
- Phó Đề đốc (Commodore), tương đương Chuẩn tướng
Trong Hải quân Pháp có các quân hàm sau đây:
- Đô đốc (Amiral), tương đương Đại tướng, có 5 sao
- Phó Đô đốc Hạm đội (Vice-amiral d'escadre), tương đương Trung tướng, có 4 sao
- Phó Đô đốc (Vice-amiral), tương đương Thiếu tướng, có 3 sao
- Chuẩn Đô đốc (Contre-amiral), tương đương Chuẩn tướng, có 2 sao
Trước đây từng có cấp bậc Đô đốc Pháp quốc. Từ năm 1830 đến năm 1869, đã có 12 quân nhân được phong Đô đốc Pháp quốc (Amiral de France). Từ đó trở đi không ai được phong cấp bậc này nữa. Ngày 29 tháng 6 năm 1939, theo một sắc lệnh, Đô đốc Darlan được phong Đô đốc Hạm đội (Amiral de la Flotte) để khỏi "lép vế" trước đồng nhiệm Anh mang quân hàm Admiral of the Fleet, nhưng đây chỉ là danh xưng thuần túy chứ không phải là một quân hàm riêng.
[sửa] Nghĩa cổ
Trong tiếng Việt cổ, đô đốc không mang nghĩa như ngày nay mà nó được hiểu như là người chỉ huy cao cấp của một cánh quân nào đó. Ngày nay, trong sử sách vẫn viết là các đô đốc X, Y nào đó. Ví dụ như trong trận quân Tây Sơn đại phá quân Thanh mùa xuân năm 1789, vua Quang Trung đã có các đô đốc như đô đốc Lộc, đô đốc Bảo, đô đốc Long, đô đốc Tuyết v.v chỉ huy các cánh quân khác nhau, trong đó có bao gồm cả lục quân và thủy quân hay đô đốc Bùi Thị Xuân là người chỉ huy voi trận.