Maria Sharapova
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
|
![]() |
||
Quốc tịch | ![]() |
|
Nơi cư trú | Bradenton, Florida, USA | |
Ngày sinh | 19 tháng 4, 1987 | |
Nơi sinh | Nyagan, Siberia, Nga | |
Chiều cao | 1.88 m | |
Cân nặng | 59 kg | |
Bắt đầu chơi chuyên nghiệp | 2001 | |
Tay thuận | Tay phải; Revers hai tay | |
Tiền thưởng giành được | 8,472,852 US$ | |
Sự nghiệp đấu đơn | ||
Thắng/thua: | 233-55 | |
Số chức vô địch: | 15 | |
Hạng cao nhất: | 1 (22 tháng 8, 2005) | |
Thành tích tốt nhất tại các giải Grand Slam | ||
Úc Mở rộng | Chung kết (2007) | |
Pháp Mở rộng | Tứ kết (2004, 2005) | |
Wimbledon | Vô địch (2004) | |
Mỹ Mở rộng | Vô địch (2006) | |
Sự nghiệp đấu đôi | ||
Thắng/thua: | 23-16 | |
Số chức vô địch: | 3 | |
Hạng cao nhất: | 41 |
Maria Yuryevna Sharapova (tiếng Nga: ; sinh ngày 19 tháng 4 năm 1987) là một vận động viên quần vợt quốc tịch Nga hiện sinh sống ở Mỹ và là nữ vận động viên kiếm được nhiều tiền nhất trên thế giới.[1] Sharapova cho đến thời điểm này đã dành được hai danh hiệu Grand Slam ở nội dung đánh đơn. Cô hiện nay là ĐKVĐ Mỹ Mở rộng (U.S. Open), sau khi thắng Justine Henin-Hardenne tại trận chung kết năm 2006. Trước đó hai năm, cô đã dành chức vô địch Wimbledon 2004, khi hạ Serena Williams tại trận chung kết.
Mục lục |
[sửa] Sự nghiệp
Năm 2004, Sharapova trở thành người thứ ba trẻ nhất trong lịch sử dành chức vô địch Wimbledon đơn nữ (sau Lottie Dod và Martina Hingis), người trẻ thứ hai nếu ta bắt đầu tính từ kỷ open khi đánh bại Ai Sugiyama (5-7, 7-5, 6-1) ở tứ kết, Lindsay Davenport (2-6, 7-6, 6-1) ở trận bán kết, và ĐKVĐ Serena Williams (6-1, 6-4) ở trận chung kết. Cô cũng trở thành người Nga đầu tiên dành danh hiệu vô địch tại đây. Sharapova kết thúc năm 2004 với chiến thắng tại WTA Championships, khi hạ Williams (4-6, 6-2, 6-4) sau khi bị dẫn 0-4 ở set quyết định.
Từ tháng 06, 2004 đến trận bán kết Wimbledon 2005, Sharapova đã có một mạch 22 trận bất bại trên mặt sân cỏ (trong đó có 2 chức vô địch liên tiếp ở Birmingham và một chức vô địch ở Wimbledon). Sau thành công trong năm 2004, Sharapova tiếp tục chụ vững, cô lọt vào bán kết giải Úc mở rộng 2005, và chỉ chịu thua sát nút Serena Williams 2-6, 7-5, 8-6, sau khi đã có 3 cơ hội kết thúc trận đấu (match point).
Tại giải Wimbledon năm 2005, trên đường bảo vệ danh hiệu của mình Sharapova thẳng tiến tới trận bán kết mà không thua một séc nào cả, nhưng tới đây cô đã vấp phải tay vợt đang hồi sinh Venus Williams và đành chịu thua với tỉ số (7-6, 6-1). Đồng thời chấm dứt mặt 22 trận bất bại trên mặt sân cỏ của mình.
Cũng trong năm này, do Lindsay Davenport bị chấn thương ở trận chung kết Wimbledon nên phải nghỉ thi đấu trong khoảng thời gian từ sau Wimbledon đến sau US Open, vì vậy mà lần đầu tiên Sharapove leo lên vị trí số một thế giới và ở tại vị trí này trong vòng sáu tuần lễ cho đến khi Davenport dành được chức vô địch giải Tier I (chỉ kém 4 giải Grand Slam) tại Zurich vào tháng 10.
Cũng trong năm 2005. Một điều hy hữu đã xảy ra với Sharapova. Tại 4 giải Grand Slam cô đã thua 4 tay vợt mà sau đó đã dành chức vô địch. (Thua Kim Clijsters ở bán kết US Open, Serena Williams ở bán kết Úc Mở rộng, Justine Henin-Hardenne ở giải Roland Garros và Venus Williams ở bán kết Wimbledon.
Năm 2006 Sharapova dành danh hiệu đầu tiên trong năm ở giải Pacific Life Open tại Indian Wells (giải được xếp hạng Tier 1), sau khi hạ hạt giống số 4 Elena Dementieva ở trận chung kết, 6-1 6-2. Đông thời Sharapova và Dementieva trở thành hai tay vợt Nga đầu tiên lọt vào trận chung kết của giải đấu này. Ngay sau đó, Sharapova cũng lọt vào trận chung kết của giải Nasdaq-100 Open, nhưng đã chịu thua Svetlana Kuznetsova 6-4, 6-3.
Danh hiệu thứ hai của năm 2006 mà cô dành được là giải Acura Classic ở San Diego, sau khi thắng Clijsters, 7-5, 7-5. Đây là chiến thắng đầu tiên của Sharapova trước Clijsters sau năm lần gặp mặt.
Được coi là một trong những ứng cử viên cho chức vô địch ở giải Mỹ Mở rộng. Cô đã xuất sắc dành chức vô địch Grand Slam thứ hai trong sự nghiệp của minh khi lần lượt đánh bại Mauresmo ở trận bán kết với tỉ số 6-0, 4-6, 6-0. Rồi Henin-Hardenne ở trận chung kết.
Vào tháng 10 Sharapova dành danh hiệu thứ tư của năm khi vô địch giải Zurich Open 2006.
Cô giành danh hiệu thứ 15- cũng là danh hiệu thứ 5 trong năm sau chức vô địch giải Generali Ladies Linz, đánh bại ĐKVĐ Nadia Petrova sau 2 set.
[sửa] Giải thưởng
2003
- Tay vợt nữ của WTA mới xuất hiện ấn tượng nhất
- Nữ vẫn động viên thể thao quyến rũ nhất (Maxim)
2004
- Tay vợt nữ của WTA xuất sắc nhất
- Tay vợt nữ của WTA tiến bộ nhất
- Nữ vẫn động viên thể thao quyến rũ nhất (Maxim)
2005
- Tay vợt nữ xuất sắc nhất do ESPN trao tặng
- Tay vợt Nga xuất sắc nhất do Liên đoàn quần vợt Nga trao tặng
- Nữ vẫn động viên thể thao quyến rũ nhất (Maxim)
2006
- Nữ vẫn động viên thể thao quyến rũ nhất (Maxim)
- Tay vợt Nga xuất sắc nhất do Liên đoàn quần vợt Nga trao tặng
[sửa] Đời sống riêng tư
- Năm 1986, bố mẹ của Sharapova chuyển từ Gomel, Belarus, tới Siberia, Nga, sau Thảm họa hạt nhân Chernobyl. Một năm sau, cô được sinh ra tại Nyagan, Nga.
- Lên 7 tuổi, Sharapova được cha cô đưa sang Mỹ để vào học Học viện quần vợt Nick Bollettieri ở Bradenton, Florida. Vài năm sau, mẹ cô cũng sang theo.
- Sharapova đã sống ở Mỹ từ khi cô còn nhỏ nhưng cô vẫn giữ quốc tịch Nga.
- Gần đây Sharapova đã mua một ngôi nhà nhìn ra bờ biển ở bãi biển Manhattan, ngoại ô Los Angeles, California, nhưng suốt thời gian trong năm, cô sống gần cơ sở huấn luyện của IMG ở Bradenton.
- Năm 19, Sharapova đã hoàn thành xong chương trình trung học.[2]
- Vào tháng 04 2005, Sharapova được bầu vào danh sách 50 người nổi tiếng đẹp nhất thế giới do cuộc bình chọn mà People Magazine tổ chức.
- Năm 2006, Maxim magazine bầu Sharapova là nữ động viên thể thao quyến rũ nhất lần thứ tư liên tiếp.
- Sharapova có một thói quen là hay hét trên sân thi đấu. Là tay vợt ồn áo nhất kể từ khi Monica Seles từ giã sự nghiệp, một tờ bào lá cải ở London đã viết "giọng hét của cô lúc cao điểm đạt tới âm lực 102 decibel" (ngang với còi của một ôtô cảnh sát).[3]
- Sharapova là bạn thân vơi tay vợt nữ người Nga Maria Kirilenko, nếu không thì không thân thiết với các tay vợt Nga khác.[4]
- Tên gọi thân mật của Sharapova là "Masha".[5]
- Sharapova tặng cây vợt mà cô đã sử dụng tại trận chung kết Wimbledon cho Regis Philbin khi quay Trực tiếp với Regis và Kelly (Live with Regis and Kelly).
- Sharapova là tay vợt Nga duy nhất đã dành được nhiều hơn một chức vô địch Grand Slam.
- Nhà tạo mốt mà Sharapova thích nhất là Marc Jacobs. Cô thỉnh thoảng tới dự các buổi trình diễn thời trang của ông.
[sửa] Trích dẫn
- Khi tôi cố gắng để trở thành tay vợt quần vợt hàng đầu, tôi không bao giờ nói tôi là thứ hai, tôi nói tôi muốn là số một.[6]
- Sau khi đã suy nghĩ kĩ càng , cá nhân tôi tin rằng, cuộc đời tôi không chỉ là về một quả chuối. (Phát biểu trong buổi họp báo sau chức VĐ US.Open khi có người cho rằng HLV của cô đã ra dấu để cô ăn một quả chuối)
[sửa] Chung kết Grand Slam đơn nữ đã tham dự
[sửa] Vô địch (2)
Năm | Giải đấu | Đối thủ ở trận chung kết | Kết quả |
2004 | Wimbledon | ![]() |
6-1, 6-4 |
2006 | U.S. Open | ![]() |
6-4, 6-4 |
[sửa] Chung kết giải WTA Tour Championships đơn nữ đã tham dự
[sửa] Vô địch (1)
Năm | Thành phố đăng cai | Đối thủ ở trận chung kết | Kết quả |
2004 | Los Angeles | ![]() |
4-6, 6-2, 6-4 |
[sửa] Chung kết các giải WTA Tour đã tham dự
[sửa] Vô địch (15)
|
|
Stt. | Ngày | Giải | Mặt sân | Đối thủ ở trận chung kết | Kết quả |
1. | 29 tháng 09, 2003 | Tokyo, Nhật Bản | Cứng | ![]() |
2-6, 6-2, 7-6(5) |
2. | 27 tháng 10, 2003 | Quebec City, Canada | Cứng | ![]() |
6-2 bỏ cuộc |
3. | 07 tháng 06, 2004 | Birmingham, Anh | Cỏ | ![]() |
4-6, 6-2, 6-1 |
4. | 21 tháng 06, 2004 | Wimbledon, London, Anh | Cỏ | ![]() |
6-1, 6-4 |
5. | 27 tháng 09, 2004 | Seoul, Hàn Quốc | Cứng | ![]() |
6-1, 6-1 |
6. | 04 tháng 10, 2004 | Tokyo, Nhật Bản | Cứng | ![]() |
6-0, 6-1 |
7. | 08 tháng 11, 2004 | WTA Championships, Los Angeles, Mỹ | Cứng | ![]() |
4-6, 6-2, 6-4 |
8. | 06 tháng 02, 2005 | Tokyo, Nhật Bản | Trải thảm | ![]() |
6-1, 3-6, 7-6(5) |
9. | 21 tháng 02, 2005 | Doha, Qatar | Cứng | ![]() |
4-6, 6-1, 6-4 |
10. | 06 tháng 06, 2005 | Birmingham, United Kingdom | Cỏ | ![]() |
6-2, 4-6, 6-1 |
11. | 18 tháng 03, 2006 | Indian Wells, Mỹ | Cứng | ![]() |
6-1, 6-2 |
12. | 06 tháng 08, 2006 | San Diego, Mỹ | Cứng | ![]() |
7-5, 7-5 |
13. | 09 tháng 09, 2006 | U.S. Open, New York City, Mỹ | Cứng | ![]() |
6-4, 6-4 |
14. | 22 tháng 10, 2006 | Zurich, Thụy Sỹ | Cứng | ![]() |
6-1, 4-6, 6-3 |
15. | 29 tháng 10, 2006 | Linz, Áo | Cứng | ![]() |
7-5, 6-2 |
[sửa] Thua ở trận chung kết (5)
Stt. | Ngày | Giải | Mặt sân | Đối thủ ở trận chung kết | Kết quả |
1. | 18 tháng 10, 2004 | Zurich, Thụy Sỹ | Cứng | ![]() |
6-4, 2-6, 3-6 |
2. | 21 tháng 03, 2005 | Miami, Mỹ | Cứng | ![]() |
3-6, 5-6 |
3. | 20 tháng 02, 2006 | Dubai, UAE | Cứng | ![]() |
5-6, 2-6 |
4. | 30 tháng 03, 2006 | Miami, Mỹ | Cứng | ![]() |
4-6, 3-6 |
5. | 27 tháng 1, 2007 | Úc Mở rộng | Cứng | ![]() |
1-6, 2-6 |
[sửa] Vô địch đôi nữ (3)
Stt. | Ngày | Giải | Mặt sân | Đồng đội | Đối thủ ở trận chung kết | Kết quả |
1. | 29 tháng 09, 2003 | Tokyo, Nhật Bản | Cứng | ![]() |
![]() ![]() |
7-6 (1), 6-0 |
2. | 20 tháng 10, 2003 | Luxembourg | Cứng | ![]() |
![]() ![]() |
6-1, 6-4 |
3. | 07 tháng 06, 2004 | Birmingham, Anh | Cỏ | ![]() |
![]() ![]() |
6-2, 6-1 |
[sửa] Thua ở trận chung kết đôi nữ (1)
Stt. | Ngày | Giải | Mặt sân | Đồng đội | Đối thủ ở trận chung kết | Kết quả |
1. | 12 tháng 02, 2004 | Memphis, Hoa Kỳ | Cứng | ![]() |
![]() ![]() |
6-4, 7-6 (0) |
[sửa] Bảng tổng kết thành tích
Để tránh việc nhầm lẫn do sự trùng lặp khi đếm, bảng sau đây chỉ được cập nhất khi một giải đấu đã hoàn toàn kết thúc. Lần cuối cùng cập nhật là sau Giải quần vợt Úc Mở rộng 2007
Giải đấu | 2002 | 2003 | 2004 | 2005 | 2006 | 2007 | SR |
---|---|---|---|---|---|---|---|
Úc mở rộng | A | V1 | V3 | BK | BK | CK | 0 / 4 |
Pháp mở rộng | A | V1 | TK | TK | V4 | 0 / 5 | |
Wimbledon | A | V4 | VĐ | BK | BK | 1 / 4 | |
Mỹ mở rộng | A | V2 | V3 | BK | VĐ | 1 / 4 | |
Grand Slam SR | 0 / 0 | 0 / 4 | 1 / 4 | 0 / 4 | 1 / 4 | 0 / 1 | 2 / 17 |
Grand Slam Thắng-Thua | 0-0 | 4-4 | 15-3 | 19-4 | 20-3 | 6-1 | N/A |
Tokyo | A | A | V2 | VĐ | BK | BK | 1 / 4 |
Indian Wells | V2 | V1 | V4 | BK | VĐ | 1 / 5 | |
Miami | A | V1 | V4 | CK | CK | 0 / 4 | |
Charleston | A | V1 | A | A | A | 0 / 1 | |
Berlin | A | A | V3 | TK | A | 0 / 2 | |
Rome | A | A | V3 | BK | A | 0 / 2 | |
San Diego | A | A | TK | A | VĐ | 1 / 2 | |
Montreal/Toronto | A | V1 | V3 | A | A | 0 / 2 | |
Moskva | A | A | A | TK | TK | 0 / 2 | |
Zurich | A | A | CK | A | VĐ | 1 / 2 | |
WTA Tour Championships | A | A | VĐ | BK | BK | 1 / 3 | |
Tổng số giải thi đấu | 2 | 14 | 20 | 15 | 15 | 1 | N/A |
Số lần lọt vào trận chung kết | 0 | 2 | 6 | 4 | 7 | 1 | N/A |
Số chức vô địch | 0 | 2 | 5 | 3 | 5 | 0 | N/A |
Vị trí xếp hạng vào cuối năm | 186 | 32 | 4 | 4 | 2 | N/A |
A = Không tham gia giải đấu
SR = Tỉ lệ số lần đoạt chức vô địch trên tổng số lần tham dự giải
V1, V2, V3... = Vòng 1, Vòng 2, Vòng 3
TK = Tứ kết
BK = Bán kết
CK = Thua ở trận chung kết
VĐ = Vô địch
[sửa] Chú thích
- ▲ Martin, John. “The Highest Paid Female Athlete On The Planet; Why Sharapova Is So Hot”, ABC News, 7 tháng 11 năm 2006.
- ▲ [1]
- ▲ Sharapova's decibel levels.
- ▲ Good friend of a fellow Russian tennis player
- ▲ Biography
- ▲ [2]
- "Maria puts world domination on hold". (Nov. 11, 2005). New Straits Times, p. 42.
- "Sharapova makes 'too much noise'" by Piers Newbery, bbc.co.uk, July 4, 2006, retrieved September 5, 2006
[sửa] Liên kết ngoài
- Thống kê về các trận giữa Sharapova với các đối thủ
- Trang chủ của Maria Sharapova
- Đoạn phim về cú đánh quyết định trận chung kết giải Mỹ mở rộng năm 2006
- WTA Tour hồ sơ về Maria Sharapova
- Maria Sharapova ở Internet Movie Database
- Đoạn phim khi Masha Sharapova nhận cúp vô địch giải Mỹ mở rộng năm 2006
- Hình ảnh, phim và tin tức về Maria Sharapova.
Tiền nhiệm: Lindsay Davenport Justine Henin-Hardenne |
Số 1 thế giới 22 tháng 8, 2005 - 28 tháng 8, 2005 12 tháng 9, 2005 - 23 tháng 10, 2005 29 tháng 1, 2007 - hiện nay |
Kế nhiệm: Lindsay Davenport chưa có |
Tiền nhiệm: Nadia Petrova |
Tay vợt nữ của WTA tiến bộ nhất 2004 |
Kế nhiệm: Ana Ivanović |
Tiền nhiệm: Justine Henin-Hardenne |
Tay vợt nữ của WTA của năm 2004 |
Kế nhiệm: Kim Clijsters |
* Kỷ Open | (1968) Billie Jean King | (1969) Ann Haydon-Jones | (1970) Margaret Smith Court | (1971, 1980) Evonne Goolagong | (1972-73, 1975) Billie Jean King | (1974, 1976, 1981) Chris Evert | (1977) Virginia Wade | (1978-79, 1982-83-84-85-86-87, 1990) Martina Navrátilová | (1988-89, 1991-92-93, 1995-96) Steffi Graf | (1994) Conchita Martínez | (1997) Martina Hingis | (1998) Jana Novotná | (1999) Lindsay Davenport | (2000-01, 2005) Venus Williams | (2002-03) Serena Williams | (2004) Maria Sharapova | (2006) Amélie Mauresmo |
* Kỷ Open | (1968) Virginia Wade | (1969-70, 1973) Margaret Smith Court | (1971-72) Billie Jean King | (1974) Billie Jean King | (1975-78, 1980, 1982) Chris Evert | (1979, 1981) Tracy Austin | (1983-84, 1986-87) Martina Navrátilová | (1985) Hana Mandlíková | (1988-89, 1993, 1995-96) Steffi Graf | (1990) Gabriela Sabatini | (1991-92) Monica Seles | (1994) Arantxa Sánchez Vicario | (1997) Martina Hingis | (1998) Lindsay Davenport | (1999, 2002) Serena Williams | (2000-01) Venus Williams | (2002) Serena Williams | (2003) Justine Henin-Hardenne | (2004) Svetlana Kuznetsova | (2005) Kim Clijsters | (2006) Maria Sharapova |
Hiệp hội quần vợt nữ | Tay vợt nữ số 1 thế giới | |
---|---|
Tracy Austin | Jennifer Capriati | Kim Clijsters | Lindsay Davenport | Chris Evert | Steffi Graf | Justine Henin-Hardenne | Martina Hingis | Amélie Mauresmo | Martina Navrátilová | Arantxa Sánchez Vicario | Monica Seles | Maria Sharapova | Serena Williams | Venus Williams |