Phương diện quân
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Phương diện quân (tiếng Nga: Фронт) là tổ chức tác chiến cao nhất của quân đội Nga trong thế chiến I và quân đội Xô Viết trong thế chiến II để độc lập hoặc phối hợp tiến hành các chiến dịch quân sự quy mô lớn có ý nghĩa chiến lược trên một hướng chiến lược.
Phương diện quân là đơn vị mang tính cơ động để thực hiện các chiến dịch tấn công và phòng ngự trong chiến tranh nên không mang tính đồn trú như quân khu khi chiến tranh nổ ra các lực lượng vũ trang của quân khu sẽ được tổ chức thành phương diện quân và khi hết chiến tranh các phương diện quân sẽ được tổ chức biên chế lại theo mô hình đồn trú của quân khu.
Trong chiến tranh giữ nước vĩ đại của Liên Xô, Bộ chỉ huy tối cao Xô Viết lãnh đạo hoạt động chiến tranh thông qua các phương diện quân. Phương diện quân là cấp tổ chức cấp trên của tập đoàn quân, trong giai đoạn đầu và giữa chiến tranh khi tổ chức và trang bị của quân đội Xô Viết còn lạc hậu thì một phương diện quân thường có 3–4 tập đoàn quân bộ binh thuần tuý, một tập đoàn quân gồm khoảng 10 sư đoàn bộ binh như vậy một phương diện quân là khoảng 30–40 sư đoàn bộ binh và các đơn vị độc lập trực thuộc phương diện quân và có quân số của phương diện quân là khoảng 30–40 vạn quân (một sư đoàn Xô Viết có biên chế chuẩn là 8.000 quân trong quá trình chiến đấu có khi chỉ còn 3.000–4.000 quân). Vào giai đoạn cuối của chiến tranh trên các hướng quyết định các phương diện quân chủ đạo của Xô Viết được biên chế rất mạnh thường có gần 8–10 tập đoàn quân binh chủng hợp thành với 60–90 sư đoàn bộ binh, 1–3 tập đoàn quân xe tăng và cơ giới, 1–2 tập đoàn quân không quân, 2–5 quân đoàn xe tăng độc lập, 1–2 quân đoàn kỵ binh độc lập, các lữ đoàn pháo binh và các quân binh chủng khác. Ví dụ trong các chiến dịch Wisla–Oder, chiến dịch đông Phổ, chiến dịch Berlin một phương diện quân Xô Viết như Belorussia 1 hay Ukraina 1 có quân số đến 80 vạn quân, khoảng 10.000 đại bác và súng cối cỡ nòng trên 76 mm, khoảng trên 2.000 xe tăng và pháo tự hành, 1.500 đến 3.000 máy bay.
Lãnh đạo phương diện quân là hội đồng quân sự phương diện quân trong đó tư lệnh phương diện quân là chủ tịch hội đồng, ngoài ra còn ba uỷ viên bắt buộc khác là phó tư lệnh phương diện quân, chủ nhiệm chính trị, tham mưu trưởng phương diện quân.
Vì một sư đoàn Đức Quốc Xã có quân số 15.000 quân thường gấp đôi biên chế sư đoàn Xô Viết nên một quân đoàn Đức thường tương đương tập đoàn quân Xô Viết và tập đoàn quân Đức thường tương đương 2-3 tập đoàn quân Xô Viết.
Về mặt tổ chức quân đội Đức Quốc Xã cũng có cấp trên của cấp tập đoàn quân là cụm tập đoàn quân (tiếng Anh: Army group) Ở các giai đoạn đầu và giữa chiến tranh một cụm tập đoàn quân Đức thường có 3–4 tập đoàn quân và sức mạnh của một cụm tập đoàn quân Đức thường tương đương 3–4 phương diện quân Xô Viết. Đến cuối chiến tranh sức mạnh của cụm tập đoàn quân Đức suy giảm nhiều thường chỉ còn 2 tập đoàn quân trong biên chế, mà biên chế và sức mạnh của phương diện quân Xô Viết thì lại tăng lên nhiều lần nên về quân số cụm tập đoàn quân Đức trở nên cân bằng với phương diện quân Xô Viết nhưng sức mạnh chiến đấu thì thua kém.