Đảng ủy Quân sự Trung ương (Việt Nam)
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Đảng ủy Quân sự Trung ương (gọi tắt là Quân ủy Trung ương) là cấp ủy cao nhất trong Quân đội Nhân dân Việt Nam, thể hiện quan điểm Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam tuyệt đối và trực tiếp về mọi mặt.
Theo Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng ủy Quân sự Trung ương do Bộ Chính trị chỉ định, gồm một số Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương công tác trong quân đội và một số Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương công tác ngoài Quân đội, đặt dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương mà thường xuyên là Bộ Chính trị.
Đảng ủy Quân sự Trung ương gồm Bí thư (từ năm 1986 do Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam đảm nhiệm), Phó Bí thư (từ năm 1986 do Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đảm nhiệm) và các ủy viên.
[sửa] Nhiệm vụ
Quân ủy Trung ương nghiên cứu đề xuất để Ban Chấp hành Trung ương quyết định những vấn đề về đường lối, nhiệm vụ quân sự và quốc phòng; lãnh đạo mọi mặt trong Quân đội.
Quân ủy Trung ương còn trực tiếp, thường xuyên lãnh đạo Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam.
[sửa] Tên gọi qua các thời kỳ
Đảng ủy Quân sự Trung ương được thành lập năm 1946 với tên gọi ban đầu là Trung ương Quân ủy. Từ tháng 8 năm 1948 đến tháng 5 năm 1952 đổi tên là Tổng Chính ủy, sau đó là Tổng Quân ủy (tháng 5 năm 1952 đến tháng 1 năm 1961), Quân ủy Trung ương (tháng 1 năm 1961 đến tháng 12 năm 1982), Hội đồng Quân sự (tháng 12 năm 1982 đến tháng 7 năm 1985). Từ ngày 4 tháng 7 năm 1985 có tên gọi như hiện nay: Đảng ủy Quân sự Trung ương.
[sửa] Bí thư Quân ủy Trung ương
- Võ Nguyên Giáp (1946-1977)
- Lê Duẩn (1978-1984)
- Văn Tiến Dũng (1984-1986)
- Trường Chinh (1986)
- Nguyễn Văn Linh (1987-1991)
- Đỗ Mười (1991-1997)
- Lê Khả Phiêu (1997-2001)
- Nông Đức Mạnh (2001 đến nay)