Đảng Cộng sản Việt Nam
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
|
Hiến pháp |
Đảng Cộng sản |
Tổng Bí thư |
Bộ Chính trị |
Ban Bí thư |
Ban Chấp hành Trung ương |
Chủ tịch nước |
Quốc hội |
Chính phủ |
Thủ tướng |
Tòa án Nhân dân Tối cao |
Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao |
Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) là đảng cầm quyền tại Việt Nam, đồng thời cũng là đảng duy nhất được phép hoạt động theo hiến pháp Việt Nam. Đây là đảng cộng sản theo chủ nghĩa Mác-Lenin (Marxism-Leninism).
Mục lục |
[sửa] Vai trò
Điều 4 của Hiến pháp Việt Nam (1992, sửa đổi) viết:
- Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
[sửa] Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc triệu tập các đại biểu cộng sản Việt Nam ngày 3 tháng 2 năm 1930 tại Hồng Kông, trên cơ sở thống nhất ba tổ chức cộng sản tại Đông Dương (Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng và Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội; thành viên từ một nhóm thứ ba tên là Đông Dương Cộng sản Liên đoàn không kịp có mặt). Hội nghị hợp nhất này diễn ra tại căn nhà của một công nhân ở bán đảo Cửu Long (Kowloon) thuộc Hồng Kông từ ngày 3 đến ngày 7 tháng 2 năm 1930, đúng vào dịp Tết năm Canh Ngọ. Tham dự Hội nghị có 2 đại biểu Đông Dương Cộng sản Đảng (Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh), 2 đại biểu An Nam Cộng sản Đảng (Nguyên Thiệu và Châu Vǎn Liêm) và 2 đại biểu ở nước ngoài (có Nguyễn Ái Quốc, đại biểu của Quốc tế Cộng sản). Hội nghị quyết định thành lập một tổ chức cộng sản duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua một số văn kiện quan trọng như: Chính cương vắn tắt, Sách lược, Điều lệ vắn tắt của Đảng, Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng. Ngày 24 tháng 2 năm 1930, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn chính thức gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương, họp tại Hồng Kông tháng 10 năm đó, tên của đảng này đổi thành Đảng Cộng sản Đông Dương theo yêu cầu của Quốc tế thứ ba (Quốc tế Cộng sản) và Trần Phú được bầu làm Tổng Bí thư đầu tiên.
Vừa ra đời, Đảng đã lãnh đạo phong trào nổi dậy 1930-1931 mà đỉnh cao là Xô-viết Nghệ Tĩnh. Phong trào này bị thất bại và Đảng Cộng sản Đông Dương bị tổn thất nặng nề vì khủng bố trắng của Pháp.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ I được bí mật tổ chức tại Ma Cao vào năm 1935 nhằm củng cố lại tổ chức đảng, thông qua các điều lệ, bầu Ban chấp hành Trung ương gồm 13 ủy viên.
Đồng thời, một đại hội của Cộng sản Quốc tế thứ ba tại Moskva đã thông qua chính sách dùng mặt trận dân tộc chống phát xít và chỉ đạo những phong trào cộng sản trên thế giới hợp tác với những lực lượng chống phát xít bất kể đường lối của những lực lượng này có theo chủ nghĩa xã hội hay không để bảo vệ hòa bình chứ chưa đặt nhiệm vụ trước mắt là lật đổ chủ nghĩa tư bản. Việc này đòi hỏi Đảng Cộng sản Đông Dương phải xem các chính đảng dân tộc tại Đông Dương là đồng minh. Đảng đã tạm bỏ khẩu hiệu "đánh đổ đế quốc Pháp" và "tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho dân cày" mà lập Mặt trận Nhân dân Phản đế Đông Dương.
Khi Thế chiến thứ hai bùng nổ, chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương lại đàn áp mạnh tay, Đảng đã chuyển hướng, coi giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu và lập ra Mặt trận Việt Minh. Thông qua mặt trận này, Đảng đã lãnh đạo nhân dân giành chính quyền tại Việt Nam, được biết đến với tên gọi Cách mạng tháng Tám.
Ngày 11 tháng 11 năm 1945 Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán để giấu sự liên hệ cộng sản, núp dưới tên gọi Hội nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở Đông Dương và những hoạt động của đảng này được trộn chung với những hoạt động của Việt Minh.
Đảng này được lập lại với tên gọi Đảng Lao Động Việt Nam vào năm 1951 tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II tại Tuyên Quang. Đại hội này được diễn ra trong vùng lãnh thổ miền bắc Việt Nam do Việt Minh kiểm soát trong lúc diễn ra Chiến tranh Đông Dương lần thứ I. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III được tổ chức tại Hà Nội vào năm 1960 chính thức hoá công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa tại miền Bắc, tức Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lúc đó và đồng thời tiến hành cách mạng tại miền Nam. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV, được tổ chức vào năm 1976 sau khi chấm dứt Chiến tranh Việt Nam, đảng này được đổi tên lại thành Đảng Cộng sản Việt Nam.
[sửa] Tổ chức
Đảng Cộng sản Việt Nam là một đảng theo chủ nghĩa Mác-Lênin (Marxism-Leninism) với đường lối tập trung dân chủ. Cơ quan lãnh đạo cao nhất là Bộ Chính trị mà đứng đầu là Tổng Bí thư. Ban chấp hành Trung ương do Đại hội Đảng bầu ra từng khóa sẽ bầu ra Bộ Chính trị và Ban Bí thư. Bộ Chính trị bầu ra Tổng Bí thư.
Vào năm 1976, sau khi Việt Nam thống nhất, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã tăng từ 77 đến 133 ủy viên và Bộ Chính trị tăng từ 11 đến 17 ủy viên trong khi Ban Bí thư tăng từ 7 đến 9 ủy viên.
Đảng Cộng sản Việt Nam còn có hệ thống các ban, mỗi ban do một trưởng ban (ít nhất là ủy viên Ban Chấp hành Trung ương) đứng đầu.
Số đảng viên tăng gấp hai từ 760.000 vào năm 1966 đến 1.553.500 vào năm 1976, đại diện 3,1% tổng dân số toàn quốc, và lên đến gần 2 triệu vào năm 1986.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI tổ chức vào tháng 12 năm 1986, ông Nguyễn Văn Linh trở thành Tổng Bí thư cùng 14 thành viên được bầu vào Bộ Chính trị và Ủy ban Trung ương được mở rộng đến 173 thành viên.
Đại hội Đảng được tổ chức 5 năm một lần để xác định đường lối của Đảng và Nhà nước. Đại hội lần thứ IX diễn ra vào tháng 4 năm 2001 với 1168 đại biểu tham dự. Ban Chấp hành Trung ương Đảng với 150 thành viên do Đại hội Đảng bầu ra, họp ít nhất mỗi năm hai lần, với Bộ Chính trị họp nhiều lần hơn và Ban Bí thư có trách nhiệm giám sát hoạt động hằng ngày dưới sự lãnh đạo của Tổng Bí thư. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, ông Nông Đức Mạnh trở thành Tổng Bí thư mới. Các thành viên chủ chốt trong Bộ Chính trị (Trần Đức Lương, Phan Văn Khải, Nguyễn Văn An, Nguyễn Tấn Dũng, Lê Hồng Anh và Phạm Văn Trà) đồng thời giữ chức vụ cao cấp trong nhà nước. Thêm vào đó, Đảng ủy Quân sự Trung ương, gồm có một số thành viên trong Bộ Chính trị và một số lãnh đạo quân sự, điều khiển chính sách quân sự.
Kết thúc nhiệm kỳ này, toàn Đảng có gần 3,1 triệu đảng viên, chiếm 3,73 % dân số cả nước.
Đại hội lần thứ X diễn ra từ 18 đến 25 tháng 4 năm 2006 với 1.176 đại biểu tham dự, sau khi bốn đại biểu (trong đó có một bộ trưởng đã từ chức, một thứ trưởng bị bắt tạm giam) đã được rút từ danh sách ban đầu. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương với 160 thành viên, với Bộ Chính trị gồm 14 thành viên. Ông Nông Đức Mạnh được bầu lại chức Tổng Bí thư.
[sửa] Các ban của Đảng
Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay có các ban sau đây mà chức năng chủ yếu là tham mưu về chủ trương, chính sách lớn thuộc lĩnh vực được giao cho Ban Chấp hành Trung ương:
- Ban Tổ chức Trung ương là cơ quan tham mưu của Ban Chấp hành Trung ương mà trực tiếp và thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư về chủ trương và các chính sách lớn thuộc lĩnh vực tổ chức cán bộ của hệ thống chính trị; đồng thời là cơ quan chuyên môn nghiệp vụ về công tác tổ chức, cán bộ, đảng viên của Trung ương. Ban này quan trọng nhất nên đứng đầu là một ủy viên Bộ Chính trị.
- Ban Đối ngoại Trung ương là cơ quan tham mưu về chủ trương, chính sách lớn thuộc lĩnh vực đối ngoại, đồng thời là cơ quan tổ chức thực hiện quan hệ đối ngoại của Đảng.
- Ban Bảo vệ Chính trị nội bộ là cơ quan tham mưu về lĩnh vực bảo vệ chính trị nội bộ, đồng thời là cơ quan nghiệp vụ về bảo vệ chính trị nội bộ.
- Ban Tư tưởng-Văn hoá Trung ương là cơ quan tham mưu về chủ trương và các chính sách lớn thuộc lĩnh vực tư tưởng, văn hoá. Ban này hình thành trên cơ sở hợp nhất Ban Tuyên huấn Trung ương và Ban Văn hóa Văn nghệ Trung ương tồn tại trước đó. Tuy nhiên hiện nay ở cấp thấp hơn (cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương) thì lại có tên là Ban Tuyên giáo.
- Ban Nội chính Trung ương là cơ quan tham mưu về chủ trương và các chính sách lớn thuộc lĩnh vực nội chính.
- Ban Kinh tế Trung ương là cơ quan tham mưu về chủ trương và các chính sách lớn thuộc lĩnh vực kinh tế-xã hội.
- Ban Khoa giáo Trung ương là cơ quan tham mưu về chủ trương và các chính sách lớn thuộc lĩnh vực khoa giáo (bao gồm khoa học, công nghệ, giáo dục, đào tạo, sức khoẻ, giới trí thức).
- Ban Dân vận Trung ương là cơ quan tham mưu về chủ trương, chính sách và giải pháp lớn về công tác dân vận.
- Ban Tài chính Quản trị Trung ương là cơ quan quản lý tài chính của Đảng cũng các đơn vị kinh tế trực thuộc.
- Ban Cán sự Đảng ngoài nước phụ trách công tác Đảng đối với các tổ chức Đảng và đảng viên ở ngoài nước.
[sửa] Ủy ban Kiểm tra Trung ương và ở các cấp
Ngoài các ban còn có Ủy ban Kiểm tra Trung ương chuyên xem xét tư cách đạo đức các đảng viên là cán bộ cao cấp, các vụ việc tiêu cực liên quan đến các đảng viên cao cấp.
Điều 32 Điều lệ Đảng quy định nhiệm vụ của Uỷ ban kiểm tra các cấp như sau:
1. Kiểm tra đảng viên, kể cả cấp ủy viên cùng cấp khi có dấu hiệu vi phạm tiêu chuẩn đảng viên, tiêu chuẩn cấp ủy viên và trong việc thực hiện nhiệm vụ đảng viên.
2. Kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới khi có dấu hiệu vi phạm trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, các nguyên tắc tổ chức của Đảng; kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra và thi hành kỷ luật trong Đảng.
3. Xem xét, kết luận những trường hợp vi phạm kỷ luật, quyết định hoặc đề nghị cấp ủy thi hành kỷ luật.
4. Giải quyết tố cáo đối với tổ chức đảng và đảng viên; giải quyết khiếu nại về kỷ luật Đảng.
5. Kiểm tra tài chính của cấp ủy cấp dưới và của cơ quan tài chính cấp ủy cùng cấp.
Uỷ ban kiểm tra có quyền yêu cầu tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên báo cáo, cung cấp tài liệu về những vấn đề liên quan đến nội dung kiểm tra.
[sửa] Tư tưởng
Tuy chính thức là một đảng Mác-Lênin, Đảng Cộng sản Việt Nam đã cải tổ đường lối theo kinh tế thị trường và tạo điều kiện cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển mạnh. Hiện nay, ĐCSVN vẫn là đảng cầm quyền duy nhất tại Việt Nam.
[sửa] Chủ tịch Ban chấp hành Trung ương
Chức Chủ tịch Ban chấp hành Trung ương Đảng, tồn tại từ năm 1951 đến 1969, chỉ duy nhất do Hồ Chí Minh nắm giữ, được coi là cao hơn Tổng Bí thư.
[sửa] Các Tổng Bí thư (Bí thư Thứ nhất)
Tên | Thời gian giữ chức | Ghi chú |
---|---|---|
Trần Phú | 10/1930-4/1931 | |
Lê Hồng Phong | 3/1935-6/1936 | Chỉ được công nhận gần đây, quãng từ năm 2000 trở đi |
Hà Huy Tập | 7/1936-3/1938 | Chỉ được công nhận gần đây, quãng từ năm 2000 trở đi |
Nguyễn Văn Cừ | 3/1938-1/1940 | |
Trường Chinh | 5/1941-9/1956 | Quyền Tổng Bí thư từ tháng 11/1940 Thôi giữ chức sau Hội nghị Trung ương về vấn đề sửa sai cải cách ruộng đất |
Lê Duẩn | 9/1960-7/1986 | 9/1960-12/1976: Bí thư Thứ nhất 12/1976-7/1986: Tổng Bí thư (đến lúc mất) |
Trường Chinh | 7/1986-12/1986 | Tổng Bí thư |
Nguyễn Văn Linh | 12/1986-6/1991 | Tổng Bí thư |
Đỗ Mười | 6/1991-12/1997 | Tổng Bí thư |
Lê Khả Phiêu | 12/1997-4/2001 | Tổng Bí thư |
Nông Đức Mạnh | 4/2001-nay (18/04/2007) | Tổng Bí thư |
[sửa] Các kỳ đại hội đại biểu toàn quốc
Đại hội Đại biểu toàn quốc | Thời gian | Địa điểm | Số đại biểu | Số đảng viên | Sự kiện |
---|---|---|---|---|---|
Lần thứ nhất | 27 - 31/3/1935 | Ma Cao (Trung Quốc) | 13 | 600 | |
Lần thứ hai | 11 - 19/2/1951 | Tuyên Quang | 158 (53 dự khuyết) | 766.349 | Khởi xướng Cải cách ruộng đất |
Lần thứ ba | 5 - 12/9/1960 | Hà Nội | 525 (51 dự khuyết) | 500.000 | Xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, tiến hành cách mạng vào miền Nam |
Lần thứ tư | 14 - 20/12/1976 | Hà Nội | 1008 | 1.550.000 | Đại hội đầu tiên sau thống nhất |
Lần thứ năm | 27 - 31/3/1982 | Hà Nội | 1033 | 2.127.000 | |
Lần thứ sáu | 15 - 18/12/1986 | Hà Nội | 1129 | 2.909.613 | Khởi xướng chính sách đổi mới |
Lần thứ bảy | 24 - 27/6/1991 | Hà Nội | 1176 | 4.155.022 | |
Lần thứ tám | 28/6 - 1/7/1996 | Hà Nội | 1198 | 5.130.000 | |
Lần thứ chín | 19/4 - 22/4/2001 | Hà Nội | 1168 | 6.465.055 | |
Lần thứ mười | 18/4 - 25/4/2006 | Hà Nội | 1176 | 7.435.665 |