Đế quốc Nga
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
- Nội dung bài này về Nga trước đây. Để biết thêm nội dung khác, xem Nga (định hướng)
|
|||
![]() |
|||
Ngôn ngữ chính thức | Tiếng Nga | ||
Tôn giáo chính thức | Chính thống giáo Nga | ||
Thủ đô | Sankt-Peterburg (Petrograd 1914-1924) | ||
Diện tích | Khoảng 22.400.000 km² (c. 1900) | ||
Dân số | Khoảng 128.200.000 (c. 1897) | ||
Mật độ dân số | Khoảng 5,8/km² (c. 1900) | ||
Chính quyền | Quân chủ chuyên quyền | ||
Quốc trưởng | Sa hoàng | ||
Thành lập | 22/10/1721 | ||
Sụp đổ | 2/3/1917 | ||
Hoàng đế đầu tiên | Pyotr Đại Đế | ||
Hoàng đế cuối cùng | Nikolai II | ||
Đơn vị tiền tệ | Rúp | ||
Quốc thiều | Боже, Царя храни! (Chúa bảo vệ Sa hoàng!) | ||
Quốc gia trước đó | Muscovy | ||
Quốc gia kế tục | Liên bang Xô Viết |
Đế quốc Nga (tiếng Nga: Российская империя, phiên âm ra chữ Latinh: Rossiyskaya Imperiya) là một nhà nước tồn tại từ năm 1721 cho đến khi tuyên bố thành một nước cộng hòa tháng 8/1917.
[sửa] Lịch sử
Đế quốc Nga thành lập từ cường quốc trung cổ Muscovy, được các hậu duệ của Ivan IV với danh hiệu là các Sa hoàng. Dù đế quốc này chỉ được Sa hoàng Pyotr Đại Đế chính thức công bố vào năm 1721, nhưng đế quốc này thực sự được khai sinh khi Pyotr trở thành Sa hoàng vào năm 1682. Ông cảm thấy phẫn nộ khi nhìn thấy sự lạc hậu của vương quốc của mình và do đó, trước khi đăng quang, ông đã đi khắp châu Âu, làm nhiều công việc khác nhau và đã học được nhiều kinh nghiệm cần thiết để mang Muscovy phát triển thành một đế quốc cường thịnh khi đó. Tiếp theo sau cuộc chiến tranh Baltic những năm 1700, Pyotr đã chiếm được các vùng trọng yếu duyên hải và thành lập một thành phố mà sau đó đã trở thành thủ đô của đế quốc này trong 200 năm, đó là Sankt Peterburg.
Đến cuối thế kỷ 19, diện tích của đế quốc này là 22.400.000 km2 (khoảng 1/6 diện tích đất của Trái Đất). Đối thủ duy nhất về diện tích rộng lớn này vào thời đó là Đế quốc Anh. Tuy nhiên, vào thời này, đa số dân số sống ở phần nước Nga thuộc châu Âu. Hơn 100 dân tộc khác nhau sống trong đế quốc Nga, với dân tộc chính là người Nga chiếm 45% dân số.
Năm 1914, Đế quốc Nga bao gồm 81 tỉnh (guberniya) và 20 vùng (oblast). Các nước chư hầu và lãnh thổ bảo hộ của đế quốc Nga bao gồm tiểu Hồi quốc Bukhara, hãn quốc Khiva và sau năm 1914 còn có Tuva (Uriankhai).
Ngoài lãnh thổ của Nga hiện nay, trước năm 1917, Đế quốc Nga bao gồm phần lớn lãnh thổ của các quốc gia sau: Ukraina, (Dnepr Ukraina và Crimea), Belarus, Moldova (Bessarabia), Phần Lan (Đại công quốc Phần Lan), Armenia, Azerbaijan, Gruzia, các quốc gia Trung Á: Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan, Turkmenistan và Uzbekistan (Russkii Turkestan), phần lớn lãnh thổ của Litva, Estonia và Latvia (các tỉnh Baltic), cũng như một phần đáng kể của Ba Lan (Vương quốc Ba Lan) và tỉnh Ardahan, Artvin, tỉnh Iğdır, và tỉnh Kars từ Thổ Nhĩ Kỳ. Trong thời kỳ từ năm 1742 tới năm 1867, Đế quốc Nga tuyên bố Alaska là thuộc địa của mình.
Đế quốc Nga theo chế độ quân chủ tuyệt đối và cha truyền con nối do Hoàng đế chuyên quyền (Sa hoàng) từ nhà Romanov đứng đầu. Chính thống giáo Nga là tôn giáo chính thức của đế quốc và Sa hoàng kiểm soát thông qua Hội đồng Thánh giáo. Các thần dân của đế quốc Nga được phân biệt theo sosloviye, hay đẳng cấp xã hội (giai cấp) như "dvoryanstvo" (quý tộc), tăng lữ, thương nhân, cozak và nông dân. Các dân tộc bản địa ở Siberi và Trung Á được đăng ký chính thức như là một hạng gọi là "inorodtsy" (không-Slav, nghĩa văn chương là: "người có nguồn gốc khác").
Sau khi lật đổ chế độ quân chủ trong cuộc Cách mạng tháng Hai năm 1917, Nga được chính phủ lâm thời tuyên bố là một nước cộng hòa.
Thời kỳ này, với sự gối lên các thời kỳ trước và sau nó, được đề cập tới trong các bài sau.
- Lịch sử Nga, 1682-1796
- Lịch sử Nga, 1796-1855
- Lịch sử Nga, 1855-1892
- Lịch sử Nga, 1892-1920