John Maxwell Coetzee
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
John Maxwell Coetzee sinh ngày 9 tháng 2 năm 1940 tại Cape Town (Nam Phi), là anh cả trong gia đình hai anh em. Mẹ ông dạy tiểu học. Cha là luật sư tập sự nhưng chỉ làm cầm chừng, và trong những năm 1941–45 phục vụ trong quân đội Nam Phi chiến đấu tại Bắc Phi và Ý Đại Lợi. Mặc dù cha mẹ không phải dòng dõi người Anh nhưng ở nhà nói tiếng Anh. Coetzee học tiểu học tại thành phố Cape Town và Worcester, và sau đó học trường đạo Thiên Chúa cũng ở thành phố Cape Town và trúng tuyển vào đại học năm 1956.
Năm 1957, Coetzee lên đại học University of Cape Town, và trong hai năm 1960 và 1961 - theo thứ tự - ra trường với bằng danh dự Văn chương Anh và Toán. Từ 1962 đến 1965, ở Anh Quốc, ông làm thảo chương điện toán trong khi nghiên cứu để viết luận án về nhà viết tiểu thuyết người Anh là Ford Madox Ford.
Năm 1963 ông kết hôn với Philippa Jubber (1939–1991), và họ có hai con: Nicolas (1966–1989) và Gisela (sinh năm 1968). Năm 1965 Coetzee học cao học tại University of Texas ở Austin (Hoa Kỳ), và đến năm 1968 đậu bằng Tiến sỹ văn chương Anh, ngôn ngữ học, và Đức ngữ. Luận án tiến sỹ viết về tiểu thuyết thời kỳ đầu của Samuel Beckett.
Trong ba năm từ 1968 đến 1971, Coetzee làm giáo sư phụ giảng môn văn chương Anh tại trường State University of New York ở Buffalo (Hoa Kỳ). Sau khi đơn xin thường trú Hoa Kỳ bị từ chối, ông trở về lại Nam Phi. Từ năm 1972 đến 2000, ông giữ nhiều chức vụ tại trường University of Cape Town, và cuối cùng là Giáo sư chính thức môn Văn Chương.
Giữa năm 1984 và 2003 ông dạy thường xuyên tại Hoa Kỳ: Các trường đại học State University of New York, Johns Hopkins University, Harvard University, Stanford University, và University Chicago, nơi trong sáu năm ông là thành viên của Ủy ban Tư tưởng Xã hội.
Coetzee bắt đầu viết tiểu thuyết năm 1969. Tác phẩm đầu tiên Dusklands, xuất bản tại Nam Phi năm 1974. In the Heart of the Country (1977) đoạt giải văn chương Nam Phi, giải CNA, và xuất bản tại Anh và Mỹ. Waiting for the Barbarians (1980) được quốc tế ngợi khen. Danh tiếng của ông được khẳng định bởi Life & Times of Michael K (1983), đoạt giải Britain's Booker. Kế đó là Foe (1986), Age of Iron (1990), The Master of Petersburg (1994), và Hất Hủi (Disgrace, 1999), lại đoạt giải Booker một lần nữa.
Coetzee cũng viết hai hồi ký tiểu thuyết, Thời Thơ Ấu (Boyhood, 1997) và Tuổi Trẻ (Youth, 2002). The Lives of Animals (1999) là một tập thuyết trình tiểu thuyết hóa, sau đó cho in chung vào Elizabeth Costello (2003). White Writing (1988) là một bộ tiểu luận về văn chương và văn hóa Nam Mỹ. Doubling the Point (1992) gồm những bài tiểu luận và phỏng vấn với David Attwell. Giving Offense (1996) là một nghiên cứu về kiểm duyệt văn chương. Stranger Shores (2001) là tập hợp những tiểu luận văn chương sau này.
Coetzee còn là một phiên dịch viên xuất sắc trong văn chương Dutch và Afrika.
Năm 2002 Coetzee di cư sang nước Úc, sống với người vợ sau Dorothy Driver ở Adelaide, Nam Úc Châu, nơi ông giữ một chức vụ danh dự tại trường đại học University of Adelaide.
[sửa] Tham khảo
- Nobel Foundation, Stockholm, 2004