Sông Lô
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Sông Lô là phụ lưu tả ngạn (bên trái) của sông Hồng, bắt nguồn từ tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), chảy vào Việt Nam tại xã Thanh Thuỷ, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang. Điểm cuối là ngã ba Việt Trì, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, đổ vào sông Hồng. Phần đầu nguồn tại Trung Quốc có tên là Bàn Long Giang, còn phần chảy tại Việt Nam có tên là sông Lô.
Tổng diện tích lưu vực: 39.000 km², trong đó phần ở Việt Nam là 22.600 km².
Đoạn sông Lô chảy ở Việt Nam có chiều dài 274 km (có sách ghi 264 km, 275 km hoặc 277 km).
Đoạn dài 156 km từ ngã ba Việt Trì đến cảng Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang, các loại tàu thuyền có tải trọng 100 đến 150 tấn vận tải có thể hoạt động được cả 2 mùa.
Đoạn từ thị xã Tuyên Quang đến thị xã Hà Giang, các tàu thuyền có tải trọng nhỏ có thể tham gia vận tải được vào mùa mưa.
Sông Lô có hai phụ lưu lớn là sông Chảy và sông Gâm, đổ vào sông Lô ở tỉnh Tuyên Quang.
[sửa] Các cây cầu bắc ngang sông Lô
[sửa] Các bài hát về sông Lô
Thời kỳ Kháng chiến chống Pháp:
- Trường ca sông Lô của Văn Cao.
- Lô Giang của Lương Ngọc Trác (nhạc sỹ và là cựu chiến binh của Trung đoàn Thủ Đô)
- Bến Bình Ca của Nguyễn Đình Phúc
- Tiếng hát sông Lô của Phạm Duy