Tỉnh Lampang
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tóm lược | |
---|---|
Thủ phủ: | Lampang |
Diện tích: | 12.534 km² Xếp hạng 10 |
Nhân khẩu: | 782.152 (2000) Xếp hạng 29 |
Mật độ dân: | 62 người/km² Xếp hạng 67 |
ISO 3166-2: | TH-52 |
Tỉnh trưởng: | Amonthat Niratsayakun (từ 2003) |
Bản đồ | |
Tỉnh Lampang (Thai ลำปาง) là một tỉnh (changwat) miền bắc Thái Lan. Tỉnh này giáp các tỉnh (từ phía bắc theo chiều kim đồng hồ): Tỉnh Chiang Rai, Tỉnh Phayao, Tỉnh Phrae, Tỉnh Sukhothai, Tỉnh Tak, Tỉnh Lamphun và Tỉnh Chiang Mai. Tên cũ trước đây của Lampang là Khelang Nakhon.
Mục lục |
[sửa] Địa lý
Tỉnh Lampang nằm giữa thung lũng rộng của Sông Wang, bao bọc quanh bởi nhiều dãy núi. Tại huyện Mae Mo, than non được khai thác lộ thiên. Về phía bắc của tỉnh này là Vườn quốc gia Doi Luang. Tỉnh này cũng có các vườn quốc gia khác như: Vườn quốc gia Tham Pha Thai, Vườn quốc gia Chae Son, Vườn quốc gia Doi Khun Than và Khu dự trữ sinh quyển Huay Tak Teak.
[sửa] Kinh tế
Lampang nổi tiếng là nơi sản xuất đồ gốm và khai khoáng. Một số lượng lớn ball clay, china stone và than non được khai thác ở khu vực xung quanh.
Có hơn 200 xưởng gốm được xây dựng tại và xung quanh Mueang Lampang. Phần lớn các nhà máy này là vừa và nhỏ sản xuất hàng trang trí nhà cửa và vật liệu xây dựng. Nhà máy điện lớn nhất Thái Lan nằm ở huyện Mae Mo gần khu mỏ than bùn. Sản phẩm nông nghiệp có dứa và gạo.
[sửa] Lịch sử
Từ thế kỷ 7, Lampang là một phần của Vương quốc Haripunchai của Dân tộc Môn. Vào thế kỷ 11, Đế quốc Khmer chiếm vùng đất này. Vua Mengrai của Lannathai đã sáp nhập Vương quốc Haripunchai vào vương quốc của mình năm 1292. Sau khi Lannathai sụp đổ, vùng này thuộc sự cai trị của Myanmar và cuối cùng thuộc về Thái Lan năm 1774.
[sửa] Biểu tượng
[sửa] Các đơn vị hành chính
Tỉnh Lampang có 13 huyện (Amphoe). Các huyện này được chia thành 100 xã (tambon) và 855 thôn (muban).
|
|
[sửa] Liên kết ngoài
Các tỉnh của Thái Lan | |||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
|