Trương Vĩnh Ký
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Petrus Jean Baptiste Trương Vĩnh Ký (6 tháng 12 năm 1837 – 1 tháng 9 năm 1898) là một học giả Việt Nam có tiếng, thông thạo 26 ngôn ngữ, được ghi trong Bách khoa Tự điển Larousse là một trong 18 văn hào thế giới của thế kỷ 19. Ông để lại hơn 100 tác phẩm về văn học, lịch sử, địa lý, từ điển và dịch thuật.
- Quanh quanh quẩn quẩn lối đường quai,
- Xô đẩy người vô giữa cuộc đời.
- Học thức gửi tên con sách nát,
- Công danh rốt cuộc cái quan tài.
- Dạo hòn, lũ kiến men chân bước,
- Bò xối, con sùng chắt lưỡi hoài!
- Cuốn sổ bình sanh công với tội,
- Tìm nơi thẩm phán để thừa khai.
Trương Vĩnh Ký được coi là người đặt nền móng cho báo chí quốc ngữ Việt Nam. Ông sáng lập, là tổng biên tập những tờ báo quốc ngữ đầu tiên, cũng là cây bút chủ chốt của rất nhiều báo khác.
Tuy nhiên, ông cũng bị nhiều người phê phán vì đã cộng tác với kẻ thù ngoại bang - tức người Pháp, do nội dung một số bức thư, được coi là của ông gửi cho các quan chức Pháp, cho thấy mục đích hợp tác với người Pháp của ông không phù hợp với quyền lợi dân tộc khi đó.
Ông qua đời ngày 1 tháng 9 năm 1898 tại Sài Gòn, hưởng thọ 62 tuổi, mộ phần hiện nay nằm trên đường Trần Hưng Đạo, quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh.
Mục lục |
[sửa] Tiểu sử
Trương Chánh Ký sinh ngày 6 tháng 12 năm 1837 tại ấp Cái Mơn, xã Vinh Thạnh, tổng Minh Lý, huyện Tân Minh, phủ Hoàng An, tỉnh Vĩnh Long (nay thuộc tỉnh Bến Tre), sau đổi tên thành Petrus Jean Baptiste Trương Vĩnh Ký. Ông là con thứ ba của Lãnh binh Trương Chánh Tri và bà Nguyễn Thị Châu. Được 5 tuổi ông bắt đầu học chữ Hán, sau về học tiếng Latinh ở trường dòng Cái Nhum. Năm 12 tuổi ông qua học trường Pinhalu (Campuchia) rồi được cấp học bổng đi học ở trường Pénang (Malaysia) trong thời gian 1851 đến 1858. Năm 1858 ông rời Pénang về Cái Mơn.
Hai năm sau Trương Vĩnh Ký ra làm phiên dịch cho quân đội Pháp lúc đấy đang chiếm đóng Sài Gòn. Ông thành hôn với bà Vương Thị Thọ vào năm 1861 và dời về ngụ Chợ Quán, Sài Gòn. Năm 1863 ông được cử theo phái đoàn nhà Nguyễn do Chánh sứ Phan Thanh Giản dẫn đầu sang Pháp triều kiến Napoléon III để điều đình chuộc lại 3 tỉnh miền Đông Nam Bộ bấy giờ là Biên Hòa, Gia Định và Mỹ Tho.
Về nước ông lần lượt được cử dạy rồi làm hiệu trưởng Trường Thông ngôn (Collège des Interprètes), chủ bút tờ Gia Định báo (tờ báo bằng chữ quốc ngữ đầu tiên), hiệu trưởng Trường Sư phạm (École normal), giáo sư Quốc Văn và Hán Văn cho người Pháp và Tây Ban Nha ở trường Collège des administrateurs stagiaires.
Năm 1886 ông được Toàn quyền Đông Dương lúc bấy giờ là Paul Bert triệu ra Huế làm việc tại Viện Cơ mật của triều đình Huế. Tháng 11 năm đó Paul Bert bất ngờ bị bệnh chết, Trương Vĩnh Ký xin từ chức về lại Sài Gòn dạy học và viết sách.
[sửa] Chức vụ, huân huy chương

Không những Trương Vĩnh Ký là một nhà văn tiền phong của nền văn học chữ quốc ngữ mà ông còn là một học giả rất nổi tiếng, ông còn được các vinh dự:
- Nhận huy chương Dũng sĩ cứu thế của Tòa thánh La Mã ngày 1 tháng 10 năm 1863 .
- Nhận huy chương Isabelle la Catholique của Tây Ban Nha Ngày 27 tháng 6 năm 1886.
- Trở thành hội viên Hội chuyên khảo về Văn hóa Á Châu Ngày 15 tháng 2 năm 1876.
- Trở thành hội viên Hội chuyên học địa dư ở Paris Ngày 07 tháng 7 năm 1878.
- Nhận huy chương Hàn Lâm Viện đệ nhị đẳng của nước Pháp Ngày 17 tháng 5 năm 1883 .
- Nhận Tứ đẳng Long Tinh, Ngọc Khánh, Long Khánh của Nam triều Ngày 17 tháng 5 năm 1886 .
- Nhận Bắc Đẩu Bội Tinh đệ ngũ đẳng của nước Pháp Ngày 04 tháng 8 năm 1886.
- Nhận Hàn Lâm Viện đệ nhất đẳng của nước Pháp Ngày 03 tháng 6 năm 1887.
- Vua Đồng Khánh ban cho ông chức Hàn Lâm Viện thị giảng học sĩ.
- Vua Khải Định ban hàm Lễ Bộ Tham Tri.
- Vua Bảo Đại ban hàm Lễ Bộ Thượng Thư.
[sửa] Một số tác phẩm
Ông có rất nhiều tác phẩm 118 tác phẩm hoặc 121 tác phẩm như:
- Truyện đời xưa
- Abrégé de grammaire annamite (Tóm lược ngữ pháp An nam)
- Kim Vân Kiều (bản phiên âm ra chữ quốc ngữ đầu tiên)
- Petit cours de géographie de la Basse-Cochichine
- Cours de langue annamite (Bài giảng ngôn ngữ An nam)
- Voyage au Tonkin en 1876 (Đông kinh du ký)
- Guide de la conversation annamite (Hướng dẫn đàm thoại An nam)
- Phép lịch sự An Nam (Les convenances et les civilités annamites)
- Lục súc tranh công
- Cours de la langue mandarine ou des caractères chinois
- Cours d'histoire annamite (Bài giảng lịch sử An nam)
- Dư đồ thuyết lược (Précis de géographie)
- Đại nam tam thập nhất tỉnh thành đồ
- Cours de littérature annamite, 1891 (Bài giảng văn chương An nam)
- Cours de géographie générale de l'Indochine (Bài giảng địa lý tổng quát Đông dương)
- Đại Nam tam thập nhứt tỉnh địa đồ
- Grand Dictionnaire Annamite Francaise (Đại tự điển An nam - Pháp)
[sửa] Sự nghiệp
Trương Vĩnh Ký là một nhà bác học, một nhà văn, một nhà viết sử, một nhà dịch thuật rất giỏi về khoa ngôn ngữ. Học giả Nguyễn Văn Tố đã liệt kê cả thảy được 118 tác phẩm của Trương Vĩnh Ký. Ông được nhiều người đánh giá là nhà văn hóa lớn, có công truyền bá chữ quốc ngữ, nhưng cũng có quan điểm khác về việc ông cộng tác với Pháp, về việc ông cùng vợ theo đạo Thiên chúa, giúp người Pháp đồng hóa dân bản xứ bằng văn hóa ...và ông là một nhà chính trị hợp tác với ngoại bang, là con cờ của thực dân [1].
Ông được xem là có công trong ngành làm vuờn Nam Kỳ lục tỉnh trong việc du nhập các giống cây ăn trái như là sầu riêng, chôm chôm tróc, măng cụt tróc, bòn bon mà ông đem về làm quà, mỗi khi ông bãi trường ở Penang đáp thuyền vê quê hương thăm gia đình ở Cái Mơn. Trong khi trồng lúa chỉ chỉ cần sáu tháng, thì lúc ban đầu trồng cây ăn trái mất tám năm mới có trái ăn gọi là trái “chiến”. Do chiến tranh sự phát triển những loại trái cây này rất chậm, chỉ giới hạn trong vùng Cái Mơn và làng xã lân cận. Càng về lâu, càng không ai để ý đến nguồn gốc các lọai cây đặc biệt của “Miền Dưới” (Mã Lai, Nam Dương) do Trương Vĩnh Ký mà có, ngoại trừ một ít bô lão tại địa phương truyền miệng nhau. Mãi vào đầu thế kỷ 20, mức sống cao buộc nông dân phải tìm cách tăng gia canh tác trồng cây ăn trái, trước tiên là Cái Mơn, rồi quận Chợ Lách, sau đến toàn tỉnh Kiến Hoà. Trái cây ngon, lợi tức thu hoạch đáng kể trong khi công sức làm vườn bỏ ra ít hơn công sức làm ruộng, từ đó khắp nơi đua nhau phát triển vườn cây ăn trái. Có nhà nông giảm diện tích làm ruộng và trở thành nhà vườn hay chủ vườn. Rồi họ sáng kiến ương hạt giống, chiết cành, tháp cây cho cây sống dai và hạ thấp thời gian sinh trái xuống còn 5 năm. Vì thế các loại trái cây này lan tràn rất nhanh khắp Nam Kỳ lục tỉnh và đem lại nhiều lợi tức cho nông dân.[2]
[sửa] Liên kết ngoài
- Bài viết trên www.nguoivienxu.vietnamnet.vn
- Trương Vĩnh Ký trong www.danang.gov.vn
- Trương Vĩnh Ký trong vietsciences.free.fr
- Giới thiệu trên www.petrusky.org.au
- Bài viết tại www.buddhismtoday.com
- Bài viết tại www.giaodiem.com
- Tầm vóc quốc tế của Pétrus Ký trên Tuổi Trẻ online
- bài về Trương Vĩnh Ký
Dữ liệu nhân vật | |
---|---|
Tên | Trương Vĩnh Ký |
Tên khác | Trương Vĩnh Ký, Pétrus Jean Baptiste |
Tóm tắt | Học giả Việt Nam |
Lúc sinh | 6 tháng 12, 1837 |
Nơi sinh | Ấp Cái Mơn, xã Vinh Thạnh, tổng Minh Lý, huyện Tân Minh, phủ Hoàng An, tỉnh Vĩnh Long, Đại Nam |
Lúc mất | 1 tháng 9, 1898 |
Nơi mất | Sài Gòn, Đại Nam |