Quân lực Việt Nam Cộng Hòa
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Quân lực Việt Nam Cộng Hòa là lực lượng quân đội của chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Được Pháp thành lập và huấn luyện từ năm 1955 với nòng cốt là lực lượng quân đội Quốc gia Việt Nam trong Liên hiệp Pháp, chủ yếu là Bảo an đoàn, Bảo chính đoàn. Đa số các tướng lãnh Việt Nam Cộng Hòa đều là công dân Pháp, từng đi học bên Pháp, và trước đây đã từng đi lính phục vụ trong quân ngũ của nước Pháp. Ngày truyền thống (còn gọi là ngày Quân lực) là ngày 19 tháng 6. Quân lực Việt Nam Cộng hòa sau này được Mỹ huấn luyện và trang bị, để chống lại những người Cộng sản miền Nam, vốn được sự hậu thuẫn của miền Bắc. Quân lực Việt Nam Cộng hòa còn bị gọi là "ngụy" theo cách gọi của người dân. Quân lực Việt Nam Cộng hòa cũng là lực lượng chính trong cuộc đảo chính 1963 lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm, và tham chính trong chính quyền cho đến ngày Việt Nam Cộng hòa sụp đổ. Sau sự kiện 30 tháng 4, 1975, lực lượng quân đội này đã tan rã.
Mục lục |
[sửa] Quá trình phát triển
|
Trong suốt thời gian chiếm đóng Đông Dương, quân đội Pháp có những người Việt phục vụ trong quân đội để đáp ứng nhu cầu chiến trường. Các quân nhân này đượt đào tạo theo quy chế Pháp và đại đa số là binh lính, hạ sĩ quan với một số rất ít sĩ quan.
- Năm 1952, Quốc trưởng Bảo Đại ra sắc lệnh chính thức thành lập Quân đội Quốc gia Việt Nam vào ngày 1 tháng 5 năm 1952, đặt trụ sở Bộ Tổng tham mưu Quân đội Quốc gia Việt Nam tại số 1 đường Galiéni (sau năm 1955 là đường Trần Hưng Đạo), Sài Gòn.
- Năm 1955, sau khi Quốc trưởng Bảo Đại bị truất phế, Thủ tướng Ngô Đình Diệm tuyên bố thành lập Việt Nam Cộng hòa, và Quân đội Quốc gia Việt Nam từ đó cải tên là Quân đội Việt Nam Cộng hòa. Cùng năm 1955, Bộ Tổng tham mưu không còn tùy thuộc hệ thống chỉ huy Pháp.
- Năm 1956 Hải quân Việt Nam Cộng hòa bắt đầu tiếp nhận tàu chiến từ Hải quân Hoa Kỳ, gồm 31 chiến hạm với 193 chiến đỉnh, đến 1963 mới chấm dứt.
- Năm 1957 thành lập binh chủng Lực lượng Đặc biệt, huấn luyện sĩ quan và hạ sĩ quan tại trường Biệt Động Đội ở Đồng Đế, và đơn vị đầu tiên mang tên Liên đội Quan sát Số 1 (LĐQSS1).
- Năm 1959, Bộ Tư lệnh Quân đoàn I, II, III, IV được thành lập với trách nhiệm an ninh lãnh thổ như sau:
- Quân đoàn I: các tỉnh miền Trung (Thừa Thiên, Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi v.v.),
- Quân đoàn II: các tỉnh Cao nguyên và nam Trung phần (Kontum, Gia Lai, Bình Định v.v.),
- Quân đoàn III: các tỉnh miền Đông Nam phần (Tây Ninh, Bình Long, Định Tường, v.v.) và Sài Gòn
- Quân đoàn IV: các tỉnh miền Tây Nam phần (Hậu Giang, Phong Dinh, An Giang v.v.)
- Cùng năm 1959, các sư đoàn khinh binh và dã chiến binh được tổ chức lại thành 7 sư đoàn bộ binh (BB), gồm Sư đoàn 1 BB, Sư đoàn 2 BB, Sư đoàn 5, Sư đoàn 7, Sư đoàn 21, Sư đoàn 22, Sư đoàn 23. Quân số mỗi sư đoàn là 10.500 người. Sau đó, Sư đoàn 9, Sư đoàn 18 và Sư đoàn 25 được thành lập.
- Năm 1959, Lữ đoàn Thủy quân Lục chiến tách ra khỏi Hải quân và trở thành lực lượng tổng trừ bị.
- Năm 1960 binh chủng Biệt động quân (BĐQ) được thành lập với 50 đại đội và bắt đầu hoạt động sâu trong vùng kiểm soát của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.
- Năm 1962, Liên đoàn Nhảy dù gồm các tiểu đoàn nhảy dù thuộc địa của Pháp được phát triển thành Lữ đoàn Nhảy dù gồm 7 tiểu đoàn nhảy dù 1, 3, 4, 5, 6, 7 và 8. Liên đoàn 31 LLĐB được thành lập.
- Năm 1962, các đơn vị Không quân tác chiến và yểm trợ tác chiến được tăng lên cấp không đoàn tại mỗi quân đoàn, với các không đoàn sau
- Năm 1965 Lữ đoàn Nhảy dù phát triển thành Sư đoàn Nhảy dù
[sửa] Các trận chiến quan trọng
- Trận Ấp Bắc (1963) –
- Trận Bình Giã (1964-1965) –
- Trận Mậu Thân (1968) –
- Trận Kampuchea (1970) –
- Trận Lam Sơn 719 (1971) –
- Trận Quảng Trị (1972) –
- Trận An Lộc (1972) –
- Trận Tống Lê Chân (1973) –
- Trận Thượng Đức (1973) –
- Trận Hoàng Sa (1974) –
- Trận Xuân Lộc (1975) –
- Trận Sài Gòn (1975) –
[sửa] Các tướng lãnh tiêu biểu
Trong lịch sử 20 năm của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, có cả thảy 159 vị được phong cấp tướng, trong đó có 1 Thống tướng (truy phong) và 5 Đại tướng.
- Thống Tướng Lê Văn Tỵ (1903-1964), truy phong năm 1964
- Đại Tướng Trần Thiện Khiêm (phong năm 1964)
- Đại Tướng Dương Văn Minh (phong năm 1964)
- Đại Tướng Nguyễn Khánh (phong năm 1964)
- Đại Tướng Cao Văn Viên (phong năm 1967)
- Đại Tướng Đỗ Cao Trí (truy phong năm 1971)
Về các tướng lãnh còn lại, xin xem:
- Danh sách Trung tướng Quân lực VNCH
- Danh sách Thiếu tướng Quân lực VNCH
- Danh sách Chuẩn tướng Quân lực VNCH
[sửa] Tổ chức Quân lực Việt Nam Cộng hòa 1975
- Năm 1975, toàn bộ Quân lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH) gồm có 1 triệu quân, gần 2 triệu súng cầm tay, 1.200 chiến xa và thiết vận xa, kể cả chiến xa M48 loại mới nhất của Hoa Kỳ, hơn 1.000 khẩu đại bác từ 105 mm xe kéo đến 175 mm cơ động, 40.000 xe vận tải, 1.600 chiến hạm chiến đỉnh và hơn 2.000 phi cơ và trực thăng.
- Đầu năm 1975, ngoài Bộ Tổng tham mưu với các cơ quan, binh chủng và binh sở trong hệ thống quản trị (hành chánh, nhân viên, huấn luyện, chiến tranh chính trị, tiếp vận), QLVNCH còn có các đơn vị yểm trợ tác chiến gồm 4 bộ tư lệnh quân đoàn và các đơn vị yểm trợ trực thuộc. Các đơn vị trực tiếp tác chiến gồm:
- Lục quân: 11 sư đoàn bộ binh, 1 sư đoàn nhảy dù, 1 sư đoàn thủy quân lục chiến, 1 liên đoàn biệt cách nhảy dù, 21 liên đoàn biệt động quân, 4 lữ đoàn kỵ binh thiết giáp, Lực lượng Lôi Hổ và Biệt Hải thuộc Nha Kỹ thuật, các đơn vị pháo binh biệt lập và lực lượng địa phương quân, nghĩa quân hơn 50.000 quân.
- Không quân. Quân số 60.000, gồm: 1 bộ tư lệnh quân chủng với đầy đủ các cơ quan và binh sở yểm trợ, 5 sư đoàn không quân tác chiến (20 phi đoàn khu trục cơ, trang bị khoảng 550 phi cơ A1H, A37 và F5, 23 phi đoàn trực thăng, trang bị khoảng 1000 phi cơ UH1 và CH47, 8 phi đoàn quan sát, trang bị khoảng 200 phi cơ O1, O2, và U17), 1 sư đoàn vận tải (9 phi đoàn vận tải, trang bị khoảng 150 phi cơ C7, C47, C119 và C130), 1 không đoàn tân trang chế tạo, 4 phi đoàn hỏa long, trang bị phi cơ AC119, AC130 Spectre Gunship. Ngoài ra còn có Phi đoàn Trắc Giác (tình báo kỹ thuật), Phi đoàn Quan sát RC119L và Biệt đoàn Đặc vụ 314.
-
- Hải quân. Quân số hơn 40.000, ngoài các đơn vị yểm trợ hành chánh, nhân viên, huấn luyện, tiếp vận (có hải quân công xưởng), gồm 3 lực lượng tác chiến: (1) Hành quân lưu động sông, với 14 giang đoàn trang bị khoảng 260 chiến đỉnh.(2) Hành quân lưu động biển với một hạm đội trang bị tuần dương hạm, hộ tống hạm, khu trục hạm, tuần duyên hạm, giang pháo hạm, trợ chiến hạm, dương vận hạm, hải vận hạm và giang vận hạm. (3) các lực lượng đặc nhiệm 211 thủy bộ với 6 giang đoàn, 212 tuần thám với 12 giang đoàn, 214 trung ương với 6 giang đoàn, và Liên đoàn Người nhái.
[sửa] Năm 1975
- Tháng 3 năm 1975, sau khi Phước Long và Ban Mê Thuộc thất thủ, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh tái phối trí, rút bỏ Quân khu I và II, dồn toàn quân về Quân khu III và IV chống giữ. Cuộc rút quân tái phối trí hoàn toàn thất bại, ông Thiệu từ chức, các tướng tá tháo chạy, và trong vòng 55 ngày, toàn bộ QLVNCH tan rã, chủ yếu vì suy sụp tinh thần và thiếu lãnh đạo.
- Trận giao tranh cuối cùng của QLVNCH ngoài vòng đai Sài Gòn xảy ra tại Xuân Lộc, do Sư Đoàn 18 BB, dưới sự chỉ huy của tướng Lê Minh Đảo, và Lữ đoàn 1 Nhảy dù, dưới sự chỉ huy của Trung tá Nguyễn văn Đỉnh.
- Trận giao tranh cuối cùng của QLVNCH trong thành phố Sài Gòn xảy ra tại bản doanh Bộ Tổng tham mưu QLVNCH, do Liên đoàn 81 Biệt kích dù, dưới sự chỉ huy của chỉ huy trưởng BCH 3 Chiến thuật, Thiếu tá Phạm Châu Tài.
- Lực lượng tan hàng sau cùng của QLVNCH là Liên đoàn 81 Biệt kích dù, dưới sự chỉ huy của chỉ huy trưởng Liên đoàn 81 Biệt kích dù, Đại tá Phan Văn Huấn.
[sửa] Tham khảo
- "Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập", Tiến Sĩ Nguyễn Đức Phương, nxb Làng Văn, Canada, 2001.