Súng
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
- Bài này nói về một loại vũ khí; về loài thực vật cùng tên, xem bài bộ Súng.
Súng là một loại vũ khí có khả năng sát thương cao. Súng được dùng phổ biến trong các cuộc chiến tranh. Trong thực tế súng có rất nhiều công dụng khác nhau, tùy trường hợp mà người ta dùng súng với các mục đích như: tiêu diệt đối phương, săn bắn, đe dọa, tội phạm, sát nhân... Súng còn dùng để gây mê.
Có rất nhiều kiểu súng khác nhau: súng ngắn, súng chống tăng, súng phóng lựu, súng phun lửa, súng tiểu liên, súng trường, súng máy, v.v. Với mỗi loại súng lại có nhiều loại khác nhau, ví như loại súng ngắn có: Súng lục, K-54, K-59, Colt 45...
Dòng súng AK, phổ biến nhất, có: AK-47, AKM. Dòng súng họ M16 có các loại: M16A, M4, ...
Mục lục |
[sửa] Nguồn gốc
Vào thế kỷ thứ 8, các nhà luyện đan Trung Hoa trong khi tìm kiếm phương thuốc trường sinh đã vô tình tạo ra một hợp chất nổ. Ban đầu hợp chất đó được dùng làm pháo hoa. Đến thế kỷ 11, thuốc súng bắt đầu được đưa vào phục vụ chiến tranh: lựu đạn tay, ống bắn đạn đá hoặc kim loại. Những khẩu súng đầu tiên xuất hiện ở châu Âu được ghi nhận là vào thế kỷ 14. Sang thế kỷ 15, những khẩu súng hỏa mai ra đời và đến thế kỷ 17, súng ống đã trở thành thứ vũ khí quan trọng có mặt trong mọi cuộc xung đột lớn của thế giới.
[sửa] Cơ cấu
Thuốc súng cháy sinh ra khí thuốc. Năng lượng của khí thuốc đẩy đạn ra khỏi nòng, đồng thời tác dụng lên khẩu súng một lực gọi là lực giật. Người ta giảm giật cho súng cá nhân bằng cách tỳ báng súng lên vai, tỳ súng lên giá khi bắn, lực giật làm lùi khóa nòng của súng về phía sau và khi trở lại vị trí cũ nhờ lò xo, nó sẽ đưa viên đạn tiếp theo vào nòng. Với các loại súng lớn, dầu hoặc khí được dùng để hãm sự giật. Đối với các loại pháo bắn góc cao như súng cối, lực giật được truyền thẳng xuống đất.
[sửa] Vấn đề luật pháp và xã hội
Ở một số nước không thống nhất về quan điểm đạo đức xã hội, súng là mặt hàng hợp pháp. Việt Nam không nằm trong số đó.
[sửa] Định nghĩa về súng.
Súng là một loại vũ khí. Súng dùng để bắn đạn tới hướng mục tiêu.
Trước đây, người ta dùng nỏ và cung để bắn tên đạn đến mục tiêu, tuy nhiên, ngày nay nhiều thứ nỏ vẫn được gọi là súng, như "súng cao su" chẳng hạn. Hay các ống phụt dùng làm công cụ, cũng được gọi là súng như "súng bắn đinh".
Tuy có nhiều loại súng, nhưng nhiều hơn cả là loại súng dùng thuốc nổ phóng đạn từ một cái ống, gọi là "nòng". Nòng súng có tác dụng chắn khí áp cao và định hướng đạn đi chính xác.
Không phải người Tầu, mà thuốc nổ xuất xứ từ Trung Á, nơi sa mạc có nhiều mỏ diêm sinh tự nhiên, sau đó truyền vào Trung Quốc vào khoảng đầu Công nguyên, cùng với kỹ thuật chế những chất dễ cháy. Trong Thiên niên kỷ thứ nhất, người ta đã dùng "Hỏa Hổ", là một thứ súng phun lửa. Đến thời Tống cũng xuất hiện những giàn tên lửa đầu tiên. Từ đầu Thiên niên kỷ thứ 2, kỹ thuật luyện kim và trộn thuốc nổ hoàn thiện, người ta dần dần chế ra súng sát thương bằng đạn, thay cho lửa. Từ đó, ở phương Đông, súng có tên là "Bác" (tức "Súng" Hán-Việt), "Thần Công" (công phá như thần), "Hỏa Thương" (thương lửa), "Hỏa Mai" (mồi bằng lửa)... Từ thời Tống, tiếng súng còn được dùng làm hiệu lệnh, nên còn có tên là "pháo", loại súng chuyên để làm việc này còn gọi là "súng lệnh", để phân biệt với "pháo lệnh" là ống tre nhồi thuốc nổ không nòng.
Ngày nay trong Tiếng Việt, tiếng "Pháo" chỉ "Súng Lớn", nghĩa đó cũng thường được gọi bằng tiếng Hán-Việt là "Đại Bác". Đồng thời, tiếng "Pháo" hiện đại cũng chỉ những liều nổ giải trí, như "pháo hoa", "băng pháo"..., vậy đó là hai từ khác nhau cùng nguồn gốc và đồng âm.
[sửa] Từ "hỏa hổ" đến "đại bác"
Từ đời Tống, súng là một ống đồng hay gang đúc, một đầu bịt kín, gọi là nòng. Đầu bịt kín có khoan một lỗ nhỏ để tra ngòi. Người ta đổ thuốc nổ vào đáy ống, nhồi tiếp đạn, lèn chặt. Khi bắn, đốt ngòi bằng lửa. Súng có thể bắn đạn cầu bằng gang hay đá, cũng có thể bắn mảnh gang (đạn ria). Thuốc nổ sử dụng là thuốc nổ đen, được trộn từ diêm sinh (KNO3) và bột than củi giã mịn. Đến thế kỷ thứ 15, súng được Hoàng Tử Việt Nam là Hồ Nguyên Trừng hoàn thiện và sử dụng rộng rãi (sau ông làm Thượng Thư bộ công, đứng đầu ngành chế súng Trung Quốc). Cũng thời điểm đó, châu Âu xuất hiện những súng nhỏ yếu.
[sửa] Súng đầu thế kỷ 19.
Việc phổ biến súng rất chậm. Ban đầu súng được chế tạo ít. Các súng bộ binh đầu tiên được làm trong cán thương, nên có tên gọi "Hỏa Thương". Lúc đó, lưỡi thương có tác dụng như lê bây giờ, nhưng do súng yếu, nên lê quan trọng hơn súng. Những súng bộ binh đầu tiên gọi là "Hỏa Mai" do vẫn dùng ngòi lửa. Súng có cò kích nổ ban đầu goi là súng kíp, kíp nổ là đá lửa. Đến đầu thế kỷ 19, ở châu Âu, súng bộ binh đã được dùng phổ biến, phần lê đã ít tác dụng hơn nên làm nhỏ đi. Tốc độ bắn khoảng vài phút / phát. Khả năng trúng mục tiêu người thật ở 50 mét khoản vài phần trăm. Lúc này ở châu Âu cũng đã có những súng cối và đại bác bắn thẳng. Súng cối là các súng có tỷ lệ chiều dài nòng / đường kính trong nòng rất nhỏ, hiện nay khoảng 10 lần. Súng cối không cần giá càng phức tạp nhiều, vì đặt trên đế để đẩy phản lực xuống đất, do đó súng cối nhẹ mà bắn được đạn nặng đi xa. Nhưng súng cối bắn không chính xác nên chỉ dùng bắn đạn trái phá theo diện tích. Còn đại bác bắn thẳng (tiếng Anh "howitzer") ngày đó là tổ tiên của lựu pháo ngày nay, tỷ lệ chiều dài nòng / đường kính nòng khoảng 20-30. Tỷ lệ này nay gọi là cal hoặc L. Cấu tạo pháo bắn thẳng ngày đó rất đơn giản, chả giá pháo ngõng ngáng khối lùi gì hết, nòng-giá liên kết thành một khối đặt trên bánh, ngày nay còn gọi là "pháo giá cứng". Mỗi lần bắn, súng lùi về sau, pháo thủ lại đẩy về trước. Đạn và thuốc nhồi từ miệng nòng. Đạn bi gang dùng để công thành, sau trận đánh, khi đã chiếm được thành, người ta di nhặt các viên đạn này dùng lại. Đạn ria đặt trong các hộp, nhồi cả hộp vào nòng.
Thế kỷ 19 đánh dấu việc dùng nòng gang, thép thay thế cho nòng đồng và mòi lửa hạt nổ thay thế dần cho mồi lửa ngòi châm. Sũng vẫn được sản xuất thủ công, đơn chiếc và dùng thuốc nổ đen.
[sửa] Súng đầu thế kỷ 20
[sửa] Những đặc điểm cơ bản của súng ngày nay.
Thế kỷ 19 hình thành các loại súng ngày nay. Pháo được chia làm nhiều loại. Pháo bắn thẳng có thêm khối lùi, nhờ đó lực tác dụng lên đất giảm đi, ít thay đổi vị trí giá súng, ảnh hưởng đến độ chính xác. Giá súng có bánh xe và càng, đầu càng có cày chống giật. Hoặc súng được đặt trên giá ba chân. Nòng súng đặt trong máng súng, máng súng đặt trên bộ ngõng ngáng, bộ ngõng ngáng lắp vào giá súng, cho phép thay đổi góc bắn, quay và ngỏng lên xuống. Nòng súng trượt trong máng súng được bôi trơn bằng mỡ súng. Mỗi phát bắn, nòng thụt về sau tốc độ được hãm bằng hãm lùi thủy lực, nòng trở về vị trí cũ sau khi lùi bằng đẩy về, đẩy về làm bằng lò xo hay khí nén. Thuốc nổ đựng trong vỏ đạn chống bắt lửa gọi là liều, đạn và liều của đại bác bắn thẳng nhồi ở sau, một số loại súng cối đơn giản nhồi miệng nòng. Sau khi nạp đạn và liều vào nòng, người ta đậy đáy nòng lại bằng khóa nòng. Đến đầu thế kỷ 20 vẫn dùng chủ yếu khóa nòng quay gờ nhỏ (tương tự như vặn bu lông vào ốc ren). Sau này, súng sùng khoá nòng xoay gờ lớn hay khóa nòng then. Ở tâm đáy vỏ đạn, có hạt nổ. Đây là khối thuốc dễ phát nổ được đặt giữa một tấm mỏng để che và một tấm dầy làm đe, kim hỏa từ khóa nòng đập hạt nổ lên đe kích nổ đạn. Những súng nhỏ dùng đạn liền khối vỏ đạn-đầu đạn-liều phóng, còn súng lớn một số dùng liều rời, nhiều liều. Hệ thống cơ khí nạp đạn quay tầm hướng tháo vỏ đạn... và hệ thống điện tử đóng vai trò quan trọng, đặc biệt trong các hệ thống đối kháng dùng súng như xe tăng hay tầu thiết giáp.
3 cải tiến quan trọng trong thế kỷ 19 là: nòng xoắn, thuốc cháy chậm và đạn xuyên phá. Nhờ nòng xoắn, viên đạn xoáy như con quay trong không khí, luôn chống lại các lệch lạc, viên đạn quay tác dụng với không khí luôn hướng tâm khí động về phía trước trọng tâm. Nhờ đó, giảm tản mát đạn, có thể làm đạn dài nặng mà vẫn hẹp, ít lực cản, thay cho đạn cầu. Thuốc cháy chậm được làm bằng các chất nổ rắn mới, như TNT, thuốc súng không khói. Các chất này có độ bền cơ học cao, không vỡ khi phóng đạn, được đúc thành các ỗng trụ rỗng. Khi cháy, các ống này ít thay đổi diện tích mặt ngoài nên cháy ổn định hơn. Nhờ diều khiển được phản ứng cháy, người ta nhồi được nhiều thuốc phóng hơn trong pháo nòng dài, tăng tầm bắn mà giảm khối lượng pháo. Đạn xuyên phá được đúc bằng thép tốt, nhồi thuốc nổ ổn định, khi đập vào giáp không kích nổ mà xuyên vào trong. Thuốc nổ cháy chậm và ổn định cùng đạn xuyên được người Đức phát triển ứng dụng đầu thế kỷ 20. Đến giữa thế kỷ 20, súng lớn cũng được đặt trên các xe cơ giới bọc thép, trở thành pháo tự hành và xe tăng.
Hồi Nội chiến Mỹ, xuất hiện các pháo trung gian giữa thần công thời cổ và pháo hiện đại. Đây là các pháo đặt ở mũi tuần dương hạm, còn gọi là Pháo Hải Quân. Chúng có ngõng ngáng tầm hướng, có nòng xoắn, khóa nòng xoay ren. Nhưng vì chưa có thuốc nổ chậm, dùng thuốc nổ đen nên nòng rất dầy, đạn cỡ nhỏ, trông khẩu súng ngắn tũn gù lưng rất xấu. Kết cấu này phát triển thành cỗ máy chiến đấu dùng súng thay thế các tuần dương hạm cổ, đó là các tầu thiết giáp.
Sau Thế chiến 2 hình thành súng hiện đại.
[sửa] Đại bác, súng lớn
Lựu pháo, là pháo bắn đạn trái phá (đạn nhồi nhiều thốc nổ). Pháo này có L nhỏ (dưới 40). Đường đạn không căng nên khó chống mục tiêu di động. Lựu pháo thường được dùng để bắn mục tiêu là bộ binh hay công trình, công sự. Loại sơn pháo trước đây dần dần bỏ (sơn pháo là pháo nhẹ, có tỷ lệ L rất thấp). Ví dụ về lựu pháo như khẩu 105mm M27 hoặc M34. Hoặc khẩu 122mm của Nga. Lựu pháo cũng có thể được dùng bắn thẳng tiền tuyến, nên đôi khi được gọi là pháo bắn thẳng. Súng phóng lựu là lựu pháo rất nhỏ dùng cá nhân. Hồi Chiến tranh Việt Nam có khẩu M-79 Mỹ còn được gọi là "cối cá nhân". Ngày nay, ống phóng lựu thường được lắp trên súng trường tấn công.
Pháo nòng dài tầm xa, hay còn gọi là pháo cấp chiến dịch, như khẩu M-46 130mm Nga hay khẩu M107 175mm tự hành "Vua chiến trường" trong chiến tranh Việt Nam. Pháo có nòng dài (L lớn hơn 50), tầm xa bắn đạn trái phá cầu vồng, chống người và công trình, công sự. Pháo có thể dùng như lựu pháo với tầm xa hơn hoặc dùng để đấu pháo rất ưu thế. Pháo tầm xa đôi khi được cải tiến đặt trên xe tăng, như khẩu M-46 có nòng giống nòng tăng hạng nặng Nga trước đây.
Pháo nòng dài bắn thẳng, như khẩu 85mm D-44 Nga, L lớn (hơn 50) . Pháo dùng ở tiền tuyến, bắn thẳng. Do đường đạn căng nên chống mục tiêu di động tốt, còn gọi là pháo chống tăng. Pháo trên xe tăng cũng vậy nhưng không có khối lùi và ngõng. Đến những năm 1960, pháo dùng trên xe tăng dần chuyển sang nòng trơn. Trong Thế chiến 2, các pháo nòng dài bắn thẳng được cải tiến từ các súng phòng không (như khẩu 88mm Đức, khẩu 76mm và 85mm chống tăng Nga). Ngày nay, súng phòng không có cỡ nhỏ, bắn nhanh, được điều khiển điện tử và một số chuyển sang nòng trơn.
Súng cối vẫn được sử dụng rất nhiều, ngày càng được hiện đại hóa, như cối dùng composite. Súng cối nhỏ ngày nay sử dụng hết sức đơn giản, lấy tầm hướng xong, chỉ cần thả đạn vào đầu nòng.
Trong thế chiến thứ 2, xuất hiện những thứ súng cực lớn như pháo trên tầu 406mm Mỹ (đặt trên các chiến hạm lớp Iowa và lớp Montana), 460mm Nhật (đặt trên chiến hạm lớp Yamato), pháo trên đường ray 800mm Dora Đức. Nhưng các thứ pháo đó đều chứng minh nhược điểm trong chiến tranh và tuyệt chủng. Sau này, người ta vẫn chế một số lượng ít ỏi súng lớn để bắn đạn hạt nhân chiến thuật.
Súng phản lực chia làm hai loại, loại có sơ tốc đầu nòng lớn so với vận tốc tối đa, và loại có tỷ lệ đó nhỏ. Thực chất chúng là tên lửa, do thói quen, người ta hay gọi những loại tên lửa này là súng.
Loại súng phản lực có tỷ lệ sơ tốc / vận tốc tối đa lớn (sơ tốc bao gồm cả vận tốc dài và quay). Để chống tăng có loại súng nhẹ dùng đầu đạn lõm, đẩy phản lực. Như các loại RPG (ống phóng tên lửa mang trái phá) Nga hay súng chống tăng dùng một lần M-72 Mỹ. Các loại pháo không giật phản lực này dần dần thay thế cho các pháo bắn thẳng. Nhưng chúng cũng dần được thay bởi tên lửa có điều khiển. Việt Nam ngay năm 1947 đã chế ra Bazzoka. B-40 là tên Việt Nam của RPG-2 Nga, B-41 là RPG-7V, ĐKZ-82 là SPG-82mm nòng trơn, ĐKZ-75mm là SPG-9 75mm nòng xoắn. Các loại súng này có vai trò lớn trong chiến tranh hiện đại, thực chất diệt nhiều xe cộ nhất sau Thế chiến 2.
Loại súng phản lực có tỷ lệ sơ tốc / vận tốc tối đa nhỏ được dùng như lựu pháo. Các giàn phóng phản lực nhiều nòng có tốc độ bắn rất cao, tác dụng tốt khi chế áp bộ binh, bắn chuẩn bị tấn công hay đấu pháo. Có thể được chế tạo có tầm xa hoặc ngắn. Pháo phản lực có tản mát đạn lớn, ngày nay được cải thiện nhờ điều khiển đường đạn điện tử.
[sửa] Súng nhỏ
Súng dùng cho bộ binh gọi là "súng trường tấn công". Trong các súng bộ binh thì súng này có nòng dài, tầm bắn hiệu quả 200-300 mét. Đạn mang theo bộ binh vài chục viên. Đầu thế kỷ 20, "súng trường tấn công" chủ yếu tháo vỏ nạp đạn thủ công, chỉ cải tiến được việc đạn lắp sẵn trong băng 5-10 viên. Đến thế chiến 2, súng trường tấn công đã hoàn thiện. Lúc này đã có vỏ đạn hình côn chống tắc với băng đạn cong, khóa nòng và lên đạn tự động bằng trích khí (trích một dòng khí từ nòng đẩy piston máy nạp đạn). Loại "súng trường tấn công" tốt hồi thế chiến là MP-44 Đức. Sau Thế chiến, Nga đưa ra khẩu AK-47 nổi tiếng. Sau đó, người Mỹ đưa ra M-16, sau này M-16 có nhiều cải tiến cho các chế độ làm việc giống với ưu thế của AK-47, như bắn chậm, ổn định, tin cậy. Súng trường tấn công liên thanh AK-47 còn gọi là "tiểu liên".
Hồi thế kỷ 19 người ta cũng đưa ra nhiều loại súng máy. Loại súng máy Gatling có nhiều nòng, động cơ quay các nòng chuyển giữa các máy nạp đạn, nổ đạn, tháo vỏ. Một loại súng máy thả đáy nòng lùi tự do làm thành khối lùi, dùng năng lượng này chạy máy nạp đạn. Loại súng máy này cỡ nhỏ, dùng cho bộ binh hay được gọi là "tiểu liên", thường được dùng cùng chức năng với súng trường tấn công, sau này bỏ đi. Loại súng máy nữa có cấu tạo như súng trường tấn công liên thanh như khẩu đại liên PKMS, trung liên RPK của Nga (cơ cấu khóa nòng xoay giống AK-47). Một loại súng máy trích khí dùng khóa nòng then như trung liên RPD, ngày nay dần dần bỏ.
Tùy cấp trang bị mà người ta gọi là tiểu, trung, đại liên. Tiểu liên cấp cá nhân, trung liên cấp tiểu đội trung đội, đại liên cấp đại đội. Khẩu 12,7mm còn gọi là trọng liên cấp tiểu đoàn.
Súng ngắn gọn nhẹ nhưng năng lực yếu, thường dùng cho sỹ quan hay cảnh sát. Súng tiểu liên nhỏ có kích thước nhỏ, uy lực tầm gần lớn, hay dùng cho đặc nhiệm. Súng bắn tỉa dược chế tạo công phu, chính xác.
[sửa] Vai trò.
Đến nay, súng vẫn là vũ khí chính trên chiến trường. Súng giành được điều đó từ đầu thế kỷ 19.
Ngày nay, tên lửa có điều khiển xuất hiện nhiều. Có những vị trí tên lửa có điều khiển hoàn toàn ưu thế so với súng như chống tầu biển, chống máy bay, mang đầu đạn chiến lược, bắn từ máy bay... Nhưng vũ khí chủ yếu hiện nay vẫn là súng.