Static Wikipedia February 2008 (no images)

aa - ab - af - ak - als - am - an - ang - ar - arc - as - ast - av - ay - az - ba - bar - bat_smg - bcl - be - be_x_old - bg - bh - bi - bm - bn - bo - bpy - br - bs - bug - bxr - ca - cbk_zam - cdo - ce - ceb - ch - cho - chr - chy - co - cr - crh - cs - csb - cu - cv - cy - da - de - diq - dsb - dv - dz - ee - el - eml - en - eo - es - et - eu - ext - fa - ff - fi - fiu_vro - fj - fo - fr - frp - fur - fy - ga - gan - gd - gl - glk - gn - got - gu - gv - ha - hak - haw - he - hi - hif - ho - hr - hsb - ht - hu - hy - hz - ia - id - ie - ig - ii - ik - ilo - io - is - it - iu - ja - jbo - jv - ka - kaa - kab - kg - ki - kj - kk - kl - km - kn - ko - kr - ks - ksh - ku - kv - kw - ky - la - lad - lb - lbe - lg - li - lij - lmo - ln - lo - lt - lv - map_bms - mdf - mg - mh - mi - mk - ml - mn - mo - mr - mt - mus - my - myv - mzn - na - nah - nap - nds - nds_nl - ne - new - ng - nl - nn - no - nov - nrm - nv - ny - oc - om - or - os - pa - pag - pam - pap - pdc - pi - pih - pl - pms - ps - pt - qu - quality - rm - rmy - rn - ro - roa_rup - roa_tara - ru - rw - sa - sah - sc - scn - sco - sd - se - sg - sh - si - simple - sk - sl - sm - sn - so - sr - srn - ss - st - stq - su - sv - sw - szl - ta - te - tet - tg - th - ti - tk - tl - tlh - tn - to - tpi - tr - ts - tt - tum - tw - ty - udm - ug - uk - ur - uz - ve - vec - vi - vls - vo - wa - war - wo - wuu - xal - xh - yi - yo - za - zea - zh - zh_classical - zh_min_nan - zh_yue - zu

Web Analytics
Cookie Policy Terms and Conditions X-Men – Wikipedia tiếng Việt

X-Men

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

X-Men (Dị nhân) là một nhóm các siêu anh hùng truyện tranh trong các truyện tranh Marvel (Marvel Comics). Được sáng tác bởi Stan Lee và Jack Kirby, X-Men xuất hiện lần đầu trong X-Men tập 1 vào tháng 9 năm 1963.

X-Men cũng đã được phát triển cả ở điện ảnh lẫn truyền hình, đáng kể nhất là loạt phim hoạt hình X-Men: The Animated Series, một trong những chương trình truyền hình sáng thứ Bảy thành công nhất. Sau một thời gian chờ đợi khá dài, bộ phim X-Men đã được công chiếu năm 2000, do Bryan Singer đạo diễn. 75 triệu USD được thu về ngay trong những ngày đầu phát hành và sau đó là 296 triệu USD trên toàn thế giới. Phần tiếp theo X2: X-Men United (Liên minh dị nhân) ra mắt năm 2003 và trở thành phim có doanh thu cao hàng thứ sáu trong năm. Tập 3 của phim, X3: The Last Stand (Phán quyết cuối cùng), phát hành ngày 26 tháng 5 năm 2006, là bộ phim có doanh thu cuối tuần cao nhất mọi thời đại vào lúc đó, mang về 120 triệu USD chỉ sau bốn ngày trình chiếu.

Mục lục

[sửa] Nền tảng

X-Men là những người có gen đột biến một cách hư cấu do kết quả của quá trình tăng trưởng đột ngột, họ mang những khả năng siêu việt tiềm ẩn và thường chỉ bộc phát khi đến tuổi thiếu niên. Nhiều người thường (Homo sapiens) mang ý nghĩ ghê tởm hoặc ngờ vực các dị nhân (Homo superior), vì nhiều nhà khoa học đánh giá họ là một bước tiến hóa mới có thể đe doạ đến xã hội nhân loại.

Mâu thuẫn giữa các dị nhân và người thường càng thêm trầm trọng bởi những cách thức mà các dị nhân (bao gồm cả những kẻ thù không đội trời chung với X-Men như Magneto và Apocalypse) sử dụng năng lực của họ để chấm dứt đụng độ một cách bạo lực hoặc phạm pháp. Từ đó, Liên minh dị nhân đã được hình thành bởi Giáo sư Charles Xavier, còn gọi là Professor X, người đã sáng lập nên một học viện dùng để huấn luyện cho các dị nhân trẻ cách bảo vệ mình và thế giới trước mối đe dọa từ những dị nhân như Magneto.

Loạt truyện X-Men là một trong những đại biểu truyện tranh kế thừa và phát huy vai trò truyền bá đa văn hóa sớm nhất và có sức ảnh hưởng mạnh nhất. Suốt trong thập niên 1970, danh sách các thành viên đa dạng hóa không ngừng, với những nhân vật xuất thân từ Đức, Ireland, Canada, Liên Xô, KenyaNhật Bản. Các nhân vật đại diện cho các nền văn hóa và sắc tộc khác nhau liên tiếp được bổ sung. Mạch truyện của họ thường động chạm đến những chủ đề có liên quan đến tình trạng của các nhóm người thiểu số, bao gồm cả sự đồng hóa, sự chịu đựng và đức tin vào một "chủng tộc thượng đẳng."

Cái tên X-Men xuất phát từ việc các dị nhân có siêu năng lực tương ứng với các gen "X-Factor" (Nhân tố X - một từ do Professor X nghĩ ra). Đồng tác giả Stan Lee nhắc lại trong quyển Son of Origins of Marvel Comics, rằng ông ta đã phát minh ra tên gọi của loạt truyện này sau khi chủ nhiệm nhà xuất bản Marvel là Martin Goodman bác bỏ cái tên đầu tiên, "The Mutants" (Những người đột biến). Theo bổ sung của cách giải thích "chính thức", X-Men có liên quan mật thiết (cả trong Thế giới Marvel cũng như bởi độc giả của loạt truyện) đến cái tên do Xavier đặt. Trong Uncanny X-Men tập 309, Xavier nói rằng tự cái tên X-Men đã nói lên sự tôn trọng các dị nhân.

[sửa] Lịch sử

[sửa] Thập niên 1960 - Nhóm X-Men đầu tiên

Đầu thập niên 1960, tác giả kiêm biên tập Stan Lee của hãng truyện tranh Marvel, cùng họa sĩ Jack Kirby và nhiều người vẽ tranh minh họa khác đã sáng tác ra một loạt các siêu anh hùng, nhấn mạnh đến tính cách nhân vật và những cuộc đụng độ cá nhân đầy chất phiêu lưu hành động, bao gồm The Fantastic Four, The Incredible Hulk và Spider-Man. X-Men là một trong những cái tên cuối cùng trong giai đoạn phục hưng của truyện tranh (Silver Age - những năm sau giai đoạn cực thịnh), xuất hiện vào tháng 9 năm 1963.

X-Men tập 1 (Tháng 9/1963). Hình bìa của Jack Kirby và Sol Brodsky
X-Men tập 1 (Tháng 9/1963). Hình bìa của Jack Kirby và Sol Brodsky

Trong loạt truyện tranh này, X-Men được sáng lập bởi một người bị liệt hai chân có năng lực ngoại cảm (telepathy), Giáo sư Charles Francis Xavier, còn gọi là Professor X. Xavier đã tập họp các Dị nhân dưới vỏ bọc của Trường năng khiếu Thanh niên Xavier, đặt tại vùng ngoại ô rộng lớn ở số 1407 Graymalkin Lane Salem Center, một thị trấn nhỏ ở Westchester County, New York.

Được quảng bá ngoài bìa là "những người hùng kỳ lạ nhất", nhóm X-Men đầu tiên gồm năm thiếu niên đang học cách chế ngự năng lực của mình:

  • Cyclops (Scott Summers), có đôi mắt bắn ra những luồng hơi nhiệt gây chấn động, nó chỉ có thể điều khiển bởi cặp mắt kính làm bằng Ruby. Anh trở thành người đứng đầu nhóm X-Men.
  • Marvel Girl (Jean Grey, sau này còn gọi là Phoenix), một người có năng lực điều khiển vật thể (telekineics), về sau cô còn có thêm khả năng ngoại cảm.
  • Angel (Warren Worthington III, sau này còn gọi là Archangel), giống như cái tên Thiên thần, anh có thể bay được nhờ vào đôi cánh có lông vũ mọc sau lưng lúc đến tuổi dậy thì. Cặp cánh này về sau bị cắt bỏ và thay bằng cánh kim loại, nhưng nó vẫn có lông vũ trắng như cũ.
  • Beast (Hank McCoy), một thiên tài có hình dáng như người thường ngoại trừ việc tứ chi của anh dài quá khổ, nhanh nhẹn phi thường, về sau biến thành một sinh vật lông xanh trông như khỉ, gần đây bắt đầu giống như mèo.
  • Iceman (Bobby Drake), có thể làm giảm nhiệt độ, ngưng tụ hơi nước trong không khí và chuyển nó sang dạng băng, hiện tại anh đã có thể tái cấu trúc cơ thể đóng băng của mình một khi nó bị phá hủy.

Tiền thân của ý tưởng về một ngôi trường dành cho những dị nhân đã từng xuất hiện vào năm 1953, trong tiểu thuyết khoa học giả tưởng Children of the Atom của Wilmar H. Shiras, mặc dù chưa từng có một xác nhận chính thức nào về việc nó là nguồn cảm hứng cho loạt truyện X-Men. Nhân vật trong tiểu thuyết cũng là các dị nhân, kết quả ngoài ý muốn của những thí nghiệm đột biến gen. Cụm từ "Children of the Atom" cũng được sử dụng suốt trong quá trình thương mại hóa X-Men, thường là một dòng phụ đề cho các ấn bản và trò chơi điện tử X-Men.

Mặc dù tư tưởng triết học được coi là có xuất hiện trong X-Men, nhưng Lee thì nói rằng ông ta phát minh cụm từ "dị nhân" nhằm mục đích tạo ra các nhân vật có siêu năng lực mà không phải lưu tâm đến nguồn gốc cũa từng người riêng biệt.

Xavier với nhóm X-Men đầu tiên; Beast, Iceman, Cyclops, Angel, và Marvel Girl. Hình của Jack Kirby.
Xavier với nhóm X-Men đầu tiên; Beast, Iceman, Cyclops, Angel, và Marvel Girl. Hình của Jack Kirby.

X-Men tập 1 cũng giới thiệu đại kình địch của nhóm là Magneto, người có thể điều khiển kim loại và luôn cho rằng phải cai trị hoặc tiêu diệt tất cả người thường. Nhân vật Magneto về sau càng được tô đậm thêm khi việc ông ta từng có quan hệ bạn bè với Professor X được tiết lộ, và tôn chỉ "dị nhân phải khuất phục hoặc bị khuất phục" bắt nguồn từ việc ông ta là người sống sót trong cuộc thảm sát người Do Thái của Đức quốc xã. X-Men tập 4 là sự ra mắt hội Brotherhood of Evil Mutants của Magneto, với các thành viên như Mastermind, Toad, Quicksilver và Scarlet Witch. Còn có một số nhân vật phản diện khác có quan hệ với Brotherhood trong thời kỳ này như Unus the Untouchable, Vanisher và Blob, riêng Blob là kẻ có quan hệ lâu dài nhất, luôn tham gia và trợ giúp hội mỗi lần xuất hiện.

Ngoại trừ một số nhân vật phản diện khác xuất hiện trong thập niên 1960, như người anh kế có sức mạnh phi thường của Professor X là Juggernaut, và người máy Sentinel có nhiệm vụ săn lùng các dị nhân; nhóm X-Men thường chiến đấu với những dị nhân bất lương tầm thường, những người ngoài Trái Đất và những con quái vật đần độn. Do đó mà thời kỳ này được đánh dấu là hết sức nhạt nhẽo, và X-Men trở thành một trong những loạt truyện tranh Marvel thất bại vào thập niên đó.

Suốt thời kỳ này, chỉ có thêm một thành viên gia nhập X-Men trong thời gian ngắn:

  • Mimic (Calvin Rankin), với khả năng bắt chước năng lực của bất cứ ai khác, kể cả các dị nhân. Anh ta được biết đến không chỉ vì việc đã đe dọa tống tiền cả nhóm, mà còn bởi việc là thành viên duy nhất bị giáo sư Xavier trục xuất khỏi trường. Việc anh ta có phải là một người đột biến hay không vẫn là một đề tài gây tranh cãi.

Lee và Kirby từ bỏ loạt truyện từ năm 1966, giao nó lại cho Roy Thomas và Werner Roth. Roth ngừng vẽ năm 1967, và Thomas thôi viết kịch bản năm 1968, suốt một năm sau đó không có thêm ấn bản nào nữa, ngoài trừ hai số do Jim Steranko vẽ, ông đã thêm vào nhân vật phản diện Mesmero. Năm 1969, Thomas quay lại với sự tham gia của họa sĩ được hâm mộ nhất lúc bấy giờ Neal Adams trong nỗ lực cứu loạt truyện khỏi một thảm bại doanh thu. Những ấn bản tiếp theo đã được người hâm mộ quan tâm hơn, khi giới thiệu sự trở lại của các nhân vật phản diện Sauron và Living Monolith, cũng như hai thành viên X-Men mới:

  • Lorna Dane (sau này là Polaris), một dị nhân tóc xanh với năng lực tương tự như Magneto.
  • Havok (Alex Summers), người em bất trị của Cyclops với khả năng hấp thu năng lượng vũ trụ và dùng nó để phá huỷ các vật thể hoặc gây ra những vụ nổ năng lượng (giống như Cyclops, anh ta rất khó khăn trong việc chế ngự năng lực hủy diệt của mình).

Mặc dù doanh số bán đã tăng trở lại từ khi Adams tiếp quản loạt truyện, nhưng nó quá nhỏ và quá muộn, hãng Marvel ngưng phát hành X-Men vào năm 1969 (chính xác là tập 66 vào tháng 3 năm 1970). Loạt truyện chỉ còn được tái bản, và X-Men thì xuất hiện trong những truyện tranh khác của Marvel -- với những màn trình diễn ấn tượng trong Marvel Team-Up, The Avengers, The Incredible HulkCaptain America - để rồi chìm vào quên lãng.

[sửa] Cuối thập niên 1970/Đầu thập niên 1980 - Những Dị nhân mới

Giant-Size X-Men tập 1, 1975. Hình của Gil Kane và Dave Cockrum
Giant-Size X-Men tập 1, 1975. Hình của Gil Kane và Dave Cockrum

Năm 1975, tác giả Len Wein và họa sĩ Dave Cockrum đã giới thiệu một nhóm Dị nhân mới. Không còn là các thiếu niên nữa, nhóm này gồm những người đã trưởng thành tập họp từ nhiều quốc gia và nền văn minh khác nhau. Việc trải rộng các nền văn hóa này xuất phát từ mục tiêu của hãng Marvel, muốn nhắm đến các thị trường ngoài nước Mỹ. Giant-Size X-Men tập 1 giới thiệu một nhóm mới, tập họp bởi Professor X nhằm giải thoát các thành viên trước đây đang bị Krakoa giam giữ tại "hòn đảo sống" nhiễm đầy phóng xạ.

Nhóm Dị nhân hoàn toàn mới này dẫn đầu bởi Cyclops, gồm các thành viên:

  • Sunfire (Shiro Yoshida), một Dị nhân người Nhật nhạy cảm với khả năng tạo ra những chùm plasma nóng bỏng và biết bay.
  • Thunderbird (John Proudstar) thuộc bộ tộc người Apache, có năng lực phi thường về sức mạnh, tốc độ, sức chịu đựng, phản xạ cũng như kỹ năng và khả năng phán đoán dấu vết bằng trực giác.
  • Banshee (Sean Cassidy), một Dị nhân người Ireland có thể thét ra sóng âm thanh, nhờ đó mà anh bay được và gây ra những luồng sóng âm.
  • Colossus (Piotr Rasputin), một người Nga trầm tĩnh kín đáo với khả năng chuyển hóa toàn bộ cơ thể thành thép để làm tăng kích cỡ, sức mạnh, tốc độ và sức chịu đựng, khiến anh gần như bất khả xâm phạm.
  • Nightcrawler (Kurt Wagner), một tay đểu cáng người Đức nhanh nhẹn phi thường với năng lực chuyển dịch tức thời. Hình dáng của anh ta trông như quỷ, với đôi mắt lấp lánh màu, bộ lông xanh mượt, mỗi bàn tay có ba ngón, mỗi bàn chân có hai ngón, có răng và tai nhọn, cuối cùng là một cái đuôi dài ngoẵng. Một khả năng khác ít được biết đến của anh là hòa lẫn vào bóng tối.
  • Storm (Ororo Munroe), một phụ nữ châu Phi có ý chí kiên cường. Cô có mối liên kết huyền bí với mọi dạng thời tiết của địa cầu, do vậy cô có thể điều khiển và thao túng thời tiết. Storm về sau trở thành người dẫn đầu các Dị nhân những khi Cyclops vắng mặt.
  • Wolverine (James "Logan" Howlett), một công chức Canada cộc tính, sở hữu những giác quan phát triển khác thường, một nhân tố hồi phục chấn thương giúp anh kéo dài tiến trình lão hóa, và những móng vuốt bằng chất adamantium có thể co duỗi tuỳ ý. Một cơ quan bí mật (Weapon X) đã kết dính một loại hợp kim chưa từng được biết vào khung xương của Wolverine. Với những bí mật được hé lộ từ từ, nguồn gốc của Wolverine là một trong những bí ẩn lớn nhất của loạt truyện.

Sau Giant-Size X-Men tập 1, hãng Marvel bắt đầu phát hành những tập X-Men mới, tập trung vào nhóm Dị nhân này (trừ Sunfire đã rời nhóm và Thunderbird đã chết trong cuộc chiến ở X-Men tập 95). Loạt truyện được Cockrum vẽ và tình tiết soạn bởi Chris Claremont, người gắn bó dài hơi nhất với bộ truyện. Một trong những tình tiết quan trọng nhất của thời kỳ này là The Phoenix Saga (Truyền thuyết Phượng Hoàng - X-Men tập 101-108, năm 1977), trong đó Jean Grey (ít ra là bề ngoài) kết hợp với một thực thể ngoài vũ trụ là Phoenix và kéo theo cả nhóm vào một nhiệm vụ liên hành tinh. Truyền thuyết cũng giới thiệu chủng tộc ngoài Trái Đất Shi'ar cùng Nữ hoàng Lilandra, một mối tình mới của Professor X.

X-Men tập 136, 1980, Hình của John Byrne
X-Men tập 136, 1980, Hình của John Byrne

Năm 1978, Cockrum đã lôi kéo John Byrne cùng cộng tác với Claremont viết tình tiết cho loạt truyện (được đổi tên thành The Uncanny X-Men không lâu sau đó -- tên chính thức từ tập 142). Việc này đánh dấu sự bắt đầu một giai đoạn trỗi dậy đầy sáng tạo của X-Men, khiến nó trở thành ấn phẩm được ưa chuộng nhất trong ngành công nghiệp truyện tranh. Sau cuộc đối đầu với Magneto, Professor X và Jean Grey tin rằng các Dị nhân đã lạc lối, và cả nhóm phải tìm lối quay về suốt trong một năm. Trong thời gian đó, Byrne sáng tác một chuỗi phiêu lưu đậm chất Canada bằng việc trình làng nhóm Alpha Flight, một nhóm siêu anh hùng người Canada. Còn Wolverine nhận được phần thưởng dành cho nhân vật truyện tranh được hâm mộ nhất, đến nỗi từ 1980 đến 1984, năm nào cũng có ít nhất một tập truyện tập trung vào anh.

Claremont và Byrne sau đó đẩy các Dị nhân vào đủ thứ tình huống hiểm nghèo như thể muốn trắc nghiệm phẩm cách của họ vậy, đáng kể nhất là Dark Phoenix Saga (Truyền thuyết Phượng Hoàng Tối - Uncanny X-Men tập 129-138, 1980). Trong loạt truyện này, hội quí tộc Hellfire Club lôi kéo Phoenix bằng một ảo giác liên hoàn tạo ra từ năng lực của Mastermind. Sự can thiệp vào tâm trí đã giải phóng mặt ác của Phoenix, khiến cô ta ra tay hủy diệt một hành tinh có năm tỉ cư dân. Cho dù các Dị nhân đã cố gắng và dường như đã thành công trong việc kềm chế cô, Lilandra vẫn quyết định bắt giữ Jean Grey với hy vọng có thể chấm dứt sự đe dọa của Phoenix. Giáo sư Xavier yêu cầu một cuộc đấu tay đôi vì danh dự để tránh phải giao nộp Phoenix. Được Kree và Skrull cam đoan sẽ đánh bại các siêu anh hùng, Lilandra chấp nhận thách đấu. Kết quả là một trận chiến trên Mặt Trăng diễn ra giữa các Vệ binh Shi'ar và các Dị nhân, còn Jean Grey phải đứng trung gian. Cuối cùng các Dị nhân bị áp đảo, nhưng đúng vào cao trào của cuộc chiến, khi Cyclops bị thương, tâm linh của Phoenix không kềm chế nổi phần nhân cách ác nữa và hiện nguyên hình. Lúc này, Lilandra định phá hủy cả Thái Dương hệ để tiêu diệt Phoenix. Professor Xavier bất đắc dĩ yêu cầu các Dị nhân giết người đồng đội của họ để tránh nguy cơ diệt vong. Nhờ vào sức mạnh ý chí và nhân tính của Jean Grey, Phoenix quyết định tự sát để khỏi gây thêm thương vong, tạo nên một bước ngoặt trong giới truyện tranh lúc đó; từ trước tới giờ các nhân vật chính hầu như không bao giờ chết, nên hành động hy sinh bản thân là hết sức bất ngờ. "Truyền thuyết Phượng Hoàng Tối" đã giới thiệu khá nhiều nhân vật, gồm có Kitty Pryde, White Queen của Hellfire Club (sau này cũng gia nhập X-Men), và Dazzler.

Trong lần hợp tác sau cùng, Claremont và Byrne đã sáng tác Day of The Future Past (Ngày quá khứ của tương lai - Uncanny X-Men tập 141-142, 1981), mô tả về một giai đoạn tương lai, khi nước Mỹ trở thành một vùng hoang tàn bị cai trị bởi những người máy Sentinel. Ở thời điểm này, phần lớn các Dị nhân và các anh hùng khác đều đã chết, những người đột biến bị lùa vào trại tập trung. Trong tình tiết gốc, linh hồn của Kate Pryde trưởng thành đi ngược thời gian tìm về chính bản thân cô ta lúc còn trẻ (Kitty), thuyết phục các Dị nhân giúp mình ngăn chặn cuộc ám sát Thượng nghị sĩ sẽ được tiến hành bởi người lãnh đạo mới của hội Brotherhood of Evil Mutants, người biến hình Mystique, cùng các cộng sự mới của cô ta, bao gồm Avalanche, Pyro và Destiny, tất nhiên không thể thiếu phần Blob. Cái nhìn tăm tối về tương lai đã gây ra sự sợ hãi, thù hận, và hẹp hòi trong nhiều câu chuyện về sau.

Năm 1982, với kịch bản của Claremont, Brent Anderson phát hành tập truyện dài X-Men: God Loves, Man Kills (Trời sinh, Người diệt), với việc Linh mục William Stryker bắt đầu một chiến dịch điên cuồng chống lại những người đột biến, hắn bắt giữ và tẩy não Professor X nhằm thao túng năng lực của ông để tấn công và tiêu diệt tâm linh của người đột biến. Các Dị nhân liên minh với Magneto để đánh bại Stryker, một trong những minh hoạ rõ ràng nhất trong loạt truyện về việc người đột biến có ý nghĩa ẩn dụ với quan hệ chủng tộc. Hơn 20 năm sau, câu chuyện là nguồn cảm hứng cho kịch bản của bộ phim điện ảnh X2 (Liên minh dị nhân), tập phim thứ hai trong loạt ba phim về Dị nhân.

Tróng lúc đó, Uncanny X-Men tiếp tục phát triển bởi Claremont và các họa sĩ như Paul Smith rồi John Romita Jr.. Cốt truyện cuối thập niên 1980 giới thiệu các sinh vật vũ trụ Deathbird và Brood, băng đảng những người đột biến sống dưới lòng đất Morlocks, kẻ săn lùng người đột biến đến từ tương lai Nimrod; tiết lộ tình yêu của Wolverine với nữ quý tộc người Nhật Mariko Yashida; chứng kiến Storm mất đi năng lực (tạm thời) và hình thành mối quan hệ với người đứng đầu chương trình vũ khí đột biến của chính phủ Forge; đào sâu mối quan hệ giữa Cyclops và Madelyne Pryor, những dấu hiệu mập mờ về Jean Grey. Loạt truyện cuối cùng chấm dứt với việc Cyclops cưới Pryor và rúi lui khỏi nhóm Dị nhân.

Các Dị nhân mới gia nhập thêm vào đầu và giữa thập niên 1980 gồm:

  • Sprite, (Kitty Pryde), sau này còn có tên ngắn Ariel và bây giờ là Shadowcat, một thiếu nữ Mỹ gốc Do Thái có thể đi xuyên qua mọi vật thể rắn, đi trong không khí loãng, có thể dùng năng lực của mình để tiếp xúc với hệ thống điện, và mở rộng phạm vi xuyên thấu cho bất cứ thứ gì cô chạm vào. Cô có tên Shadowcat sau một cuộc phiêu lưu ở Nhật với Wolverine.
  • Rogue, một người đẹp phương Nam có thể hấp thu năng lực và ký ức của bất kỳ ai tiếp xúc với cô, làm cho họ yếu đi hoặc bất tỉnh một lúc, thậm chí hôn mê vĩnh viễn. Lúc đầu Rogue là một thành viên trong hội Brotherhood of Evil Mutants của Mystique.
  • Rachel Summers, Phoenix đệ nhị (sau này là Marvel Girl đệ nhị), con gái đã trưởng thành của Cyclops và Jean Grey sau sự kiện "Ngày quá khứ của tương lai". Rachel hành xử như là một bản sao của Thực thể Phượng Hoàng với năng lực ngoại cảm và điều khiển vật thể. Cô còn có khả năng du hành xuyên thời gian trong trạng thái xuất thần, năng lực này có thể được khuyếch đại để chuyển dịch bản thân cô và người khác đi xuyên thời gian theo ý muốn một cách tự nhiên.

[sửa] Từ giữa đến cuối thập niên 1980 - Loạt truyện trở thành thương hiệu

The New Mutants tập 1, 1983; hình của Bob McLeod
The New Mutants tập 1, 1983; hình của Bob McLeod

Từ thập niên 1980, sự phổ biến của Uncanny X-Men và sự ra đời của những cửa hàng chuyên kinh doanh truyện tranh đã dẫn đến việc tung ra hàng loạt ấn phẩm ăn theo gọi chung là "X-Books". Trước tiên là The New Mutants vào năm 1983, giới thiệu một nhóm Dị nhân thiếu niên mới tiếp quản trường học Xavier. Năm 1985, những Dị nhân cũ tập họp lại dưới cái tên X-Factor, với sự hồi sinh đầy tranh cãi của Jean Grey. Năm 1988 là một loạt truyện dành riêng cho Wolverine, tập trung vào sự đấu tranh của anh giữa danh dự cá nhân và quá khứ. Năm 1987, hãng Marvel bổ sung một nhóm đặc biệt Excalibur, với Rachel Summers, Nightcrawler, Shadowcat cùng các siêu anh hùng người Anh là Captain Britain và Meggan. Do có quá nhiều ấn phẩm ăn theo, thương hiệu X-Men trở thành một trong những tài sản đáng giá nhất của Marvel, có điều huyền thoại X-Men trở nên quá rắc rối và những tình tiết thì ngày càng mở rộng đến mức khó lòng theo kịp. Trong thập niên này, sự thành công của X-Books đã gây ảnh hưởng đến những thương hiệu phổ biến khác, như Spider-Man (Người Nhện), Superman (Siêu nhân), Batman (Người Dơi), và phát triển thành một mối liên kết "họ hàng" giữa những loạt truyện tranh nhiều tập.

Một tình tiết gây tranh cãi khác là việc để Professor X di trú vào không gian trong năm 1986, sau khi ông ta bị những chấn thương nghiêm trọng và chỉ có thể sống sót nhờ công nghệ của chủng tộc Shi'ar, và không thể trở về Trái Đất do những quầng lửa phát ra từ Mặt Trời. Sự kiện gây tranh cãi nhất chính là việc đại kình địch Magneto tiếp quản ngôi trường thay giáo sư Xavier và mở rộng các thành viên (đây là nguyên nhân chính khiến cho nhóm Dị nhân ban đầu quyết định thành lập X-Factor và lui vào hoạt động bí mật - họ cho là nhóm Dị nhân mới đã "phản bội" giáo sư Xavier và bắt tay với Magneto).

Sự thừa mứa các câu chuyện về những Dị nhân đã dẫn đến hệ quả là tình tiết giữa các X-Books đan xen vào nhau (còn gọi là "X-Overs"), có khi trong nhiều tháng liên tục. Đầu tiên là Mutant Massacre (Cuộc tàn Sát Dị nhân) năm 1986, tiến hành bởi tổ chức dị nhân khát máu Marauder, đã tiêu diệt băng Morlocks và làm bị thương nghiêm trọng nhiều Dị nhân liên quan (những chấn thương của Kitty Pryde và Nightcrawler tạo điều kiện cho các tác giả gởi họ đến nước Anh để gia nhập Excalibur). Phần này giới thiệu thủ lĩnh Mister Sinister của Marauders, một dị nhân ác tinh thông di truyền học và là trọng tâm trong nhiều cốt truyện phụ có liên quan. Các ấn phẩm còn mang Sabretooth, từng là địch thủ của người hùng võ thuật Iron Fist, vào thế giới các Dị nhân và làm kẻ thù của Wolverine, với lời gợi ý là hai người từng có quan hệ trong quá khứ.

Suốt giai đoạn này, Claremont ra mắt một đội ngũ Dị nhân mới gồm Storm, Rogue, Wolverine, Colossus, Havok và nhiều nhân vật mới:

  • Magneto, cựu địch thủ của nhóm, trở thành người lãnh đạo nhóm X-Men và The New Mutants thay cho giáo sư Xavier khi mọi người nghĩ ông đã chết. Magneto bỏ đi sau khi không thể cứu sống được một trong những thành viên của The New Mutants (Douglas Ramsey, còn gọi là Cypher), và lại tiếp tục là một nhân vật phản diện số một.
  • Dazzler (Alison Blaire), một cựu ca sĩ phòng nhạc có thể hấp thu năng lượng âm thanh và chuyển hóa thành các hiệu ứng ánh sáng, như tia laser chẳng hạn. Dazzler được giới thiệu trong các tập truyện ở những năm đầu, sau đó cô xuất hiện riêng trong một loạt truyện tranh vào những năm giữa.
  • Psylocke (Betsy Braddock), trong truyện tranh Captain Britain là một người Anh có khả năng ngoại cảm, cô thay đổi năng lực nhiều lần trong các năm sau này, và đến khi cô hoán đổi thể xác với một phụ nữ Nhật thành một nữ võ sĩ đầy quyến rũ khêu gợi, nó chuyển thành khả năng điều khiển vật thể.

Cũng vào giai đoạn này, dưới dạng xen kẽ, các Dị nhân còn xuất hiện ở hai loạt truyện ngắn: The Fantastic Four vs. the X-Men (Bộ Tứ Siêu Phàm chống lại Dị Nhân) và X-Men vs. the_Avengers (Dị Nhân chống lại Avengers). Cốt truyện của nó nối tiếp phần kết cục lơ lửng của "Cuộc Tàn Sát Dị Nhân", trong đó thủ lĩnh Mr. Fantastic của Bộ Tứ Siêu Phàm và kẻ thù Dr. Doom đóng vai trò then chốt để cứu sống Kitty Pryde.

Sau loạt truyện xen kẽ Fall of the Mutants (Sự sụp đổ của Dị nhân) năm 1987, trong đó các Dị nhân chết đi và sống lại khi chiến đấu với con quỷ Adversary ở Dallas, cả nhóm đã chuyển đến một căn cứ bỏ hoang ở Australia trong thời gian ngắn. Giai đoạn này chứng kiến sự ra mắt của Reavers, một nhóm lính đánh thuê nửa người nửa máy, xen kẽ với loạt truyện Inferno (Địa ngục trần gian), trong đó tiết lộ rằng Madelyne Pryo là một bản sao của Jean Grey do Mister Sinister tạo ra. Các dị nhân của cả hai nhóm X-Men và X-Factor giao chiến với Pryor, lúc này đã điên cuồng và biến thành Goblin Queen, cùng với bầy quỷ cô ta tạo ra. Một trong các cao trào của câu chuyện là sự hợp nhất của hai nhóm X-Men và X-Factor -- X-Factor không biết rằng nhóm X-Men còn sống, còn X-Men ngỡ rằng Jean Grey đã chết. Việc lưu trú tại Australia chấm dứt khi Storm và Rogue được cho là đã chết, những thành viên còn lại nản lòng và quyết định đến Siege Perilous, một khối pha lê cho biết số mệnh của từng người. Claremont nhân cơ hội đó để đưa hai cái tên Dazzler và Longshot vào dĩ vãng (hai người lấy nhau và có một đứa con). Không như các thành viên khác, tin tức của họ rất hiếm hoi. Năm 2005, Dazzler xuất hiện lại trong nhóm Excalibur mới, còn Longshot xuất hiện trong Exiles.

Cuối năm 1989, hãng Marvel bắt đầu phát hành Uncanny X-Men hai lần một tháng, tạo điều kiện cho Claremont viết một cốt truyện chung cho các ấn bản X-Men. Năm 1990, loạt truyện xen kẽ The X-Tinction Agenda (Kế hoạch tiêu diệt) đã tái tổ chức các Dị nhân, gồm có Storm, Banshee, Wolverine, Psylocke và ba thành viên mới:

  • Forge, một người Mỹ gốc Ấn Độ với năng lực sáng tạo ra những thứ không theo khuôn mẫu.
  • Jubilee (Jubilation Lee), một thiếu nữ có khả năng tạo ra những vụ nổ năng lượng, cô ta gọi là pháo hoa. Jubilee đã đi lậu vé trong một cuộc dã ngoại của các nữ Dị nhân. Cô ở cùng chỗ đóng trại của họ trong nhiều tuần mà không bị phát hiện, cho đến khi cứu Wolverine thoát khỏi bàn tay độc ác của Lady Deathstrike.
  • Gambit (Remy LeBeau), một tay trộm khéo léo có thể tích điện vào mọi vật thể (thường thích dùng các lá bài) và làm cho nó phát nổ khi ném ra. Ngoại hình đầy mê hoặc giúp cho anh ta gây ảnh hưởng lên nhận thức của người khác, thuyết phục họ tin và chấp nhận những gì anh ta đưa ra.

Trận đánh cuối cùng trong giai đoạn này, The Muir Island Saga (Truyền thuyết đảo Muir), là cuộc chiến giữa X-Men, X-Factor cùng một số đồng minh với kẻ thù không đội trời chung của giáo sư Xavier trước đây, Shadow King.

Từ năm 1987 đến 1990, Marc Silvestri là họa sĩ cho Uncanny X-Men. Ông ta sau đó được thay bởi Jim Lee, một trong những họa sĩ truyện tranh được hâm mộ nhất của loạt truyện X-Men.

[sửa] Thập niên 1990 - Bùng bổ doanh thu

X-Men tập 1, tập truyện tranh bán chạy nhất mọi thời đại. Hình của Jim Lee
X-Men tập 1, tập truyện tranh bán chạy nhất mọi thời đại. Hình của Jim Lee

Sau khi các Dị nhân trở lại Westchester và Professor X trở về Trái Đất đầu năm 1991, hãng Marvel dọn dẹp lại các ấn phẩm X-Books. Họa sĩ Rob Liefeld chuyển nhóm The New Mutants thành một lực lượng quân đội, X-Force, lãnh đạo bởi một người sùng bái chiến tranh là Cable. Nhóm Dị nhân đầu tiên xóa sổ cái tên X-Factor và nhập chung vào đội X-Men, một số trong họ đã biến đổi so với lúc trước. Beast đã mọc thêm bộ lông xanh và đạt được học vị Tiến sĩ di truyền học. Angel, giờ đây là Archangel, đã bị biến đổi hoàn toàn bởi Siêu dị nhân 5000 tuổi Apocalypse và có làn da xanh cộng thêm đôi cánh thép. Trong lúc đó, Havok, Polaris và nhiều người đột biến khác hình thành nhóm X-Factor mới, trực thuộc chính phủ.

Để có chỗ cho nhóm Dị nhân đông đúc này, hãng Marvel tạo thêm một loạt truyện mới, vẫn lấy tên X-Men. Với cốt truyện của Claremont và tranh vẽ của Lee, loạt truyện này ra mắt "Đội xanh", gồm Beast, Psylocke, Rogue, Gambit, Cyclops và Wolverine. Uncanny X-Men, được viết và vẽ bởi Lee và Whilce Portacio, ra mắt "Đội vàng", gồm Colossus, Iceman, Archangel, Jean Grey, Storm và Bishop, một Dị nhân dùng súng sống ngoài vòng pháp luật đến từ tương lai. Professor X, Jubilee, Banshee và Forge lập thành nhóm X-Men ngoài vòng chiến; Banshee và Forge sau đó không lâu đã ra đi vì những lý do khác nhau.

Tranh vẽ của Lee và Liefeld rất được hâm mộ, cộng thêm việc tổ chức lại các nhóm như trên khiến cho X-Men trở nên được ưa chuộng mạnh mẽ. Ấn bản đầu tiên của X-ForceX-Men trở thành hai trong số các tập truyện tranh bán chạy nhất mọi thời đại, tạo nên một đợt bùng nổ doanh số cho những kẻ đầu cơ truyện tranh.

Trong lúc thành công thì những va chạm nội bộ đã chia rẽ nhóm sáng tác truyện X-Men. Claremont ra đi chỉ sau ba tập X-Men do những tranh chấp với Lee và biên tập viên của Marvel, chấm dứt mười lăm năm viết cốt truyện cho X-Men. Vài tháng sau, Liefeld và Lee cũng rời Marvel cùng với nhiếu họa sĩ khác (có cả Silvestri và Portacio) để thành lập hãng Image Comics.

Sức hấp dẫn của X-Men vẫn tiếp tục, với phim hoạt hình nhiều nhiều tập rất được hâm mộ của Fox Network: X-Men Animated Series ra mắt vào năm 1992. Trong lúc đó Uncanny X-Men được giao cho Scott Lobdell viết kịch bản cùng với họa sĩ Joe Madureira, người đã đưa truyện tranh Nhật Bản vào nước Mỹ. Còn X-Men thì tiếp tục với người viết kịch bản mới Fabian Nicieza và họa sĩ Andy Kubert.

Sự đan xen giữa các tình tiết lại lan tràn, và nó là sự kiện thường niên suốt thập niên 1990. Doanh thu không ngừng tăng trưởng, nhưng người hâm mộ bắt đầu phàn nàn rằng đó chỉ là sự loay hoay che dấu tình trạng sáo mòn thấy rõ. Một số tình tiết nổi bật trong thời kỳ này là:

  • The X-Tinction Agenda (Kế hoạch tiêu diệt - 1990), nói về chính phủ Genosha, một hòn đảo hư cấu ngoài khơi châu Phi là nơi giam giữ những người đột biến.
  • The Muir Island Saga (Truyền thuyết đảo Muir - 1991), sự trở lại của X-Factor và giáo sư Xavier.
  • X-Cutioner's Song (Trường ca X-Cutioner - 1992), câu chuyện về bản sao của Cable giả dạng làm thủ lĩnh X-Force để lấy mạng Professor X, và kẻ thù không đội trời chung của X-Men đến từ tương lai, Stryfe. Hắn còn bắt giữ và tra tấn Cyclops và Jean Grey, cha mẹ của Cable và Stryfe.
  • Fatal Attractions (Lực hút tai hại - 1993), Magneto trở lại, rút chất adamantium ra khỏi cơ thể Wolverine, Giáo sư Xavier buộc phải tẩy não ông ta. Đây là phần tiếp theo của Bloodties (Ràng buộc huyết thống).
  • Phalanx Covenant (Hiệp ước Phalanx - 1994), một tập họp các ý thức bị nhiễm Transmode Virus thâm nhập vào X-Mansion, bắt cóc nhiều người đột biến chưa từng biết đến (như Husk), và lên kế hoạch tiêu diệt họ. Phalanx bị ngăn cản bởi một số ít các Dị nhân chưa bị vô hiệu hóa, về sau còn xuất hiện trong loạt truyện xen kẽ ăn theo Generation X.
  • Age of Apocalypse (Điệp vụ Legion/Thời đại Apocalypse - 1995), Professor X bị giết bởi chính con trai của ông, Legion (David Haller), khi nó du hành xuyên thời gian đến thời điểm trước khi ông thành lập X-Men. Một thì hiện tại thay thế đã xuất hiện, trong đó Apocalypse cai trị Nam Mỹ và Magneto lãnh đạo các Dị nhân chống trả lại hắn.
  • Onslaught (1996), thống trị mọi loạt truyện của hãng Marvel suốt hai tháng. Trong diễn tiến này, Professor X mất khả năng kiểm soát năng lực của mình, và phần nhân cách xấu xa của ông đã biến thành Onslaught, một thực thể gần như tối thượng, nó chỉ bị đánh bại dưới sự liên kết giữa các Dị nhân, nhóm Avengers và The Fantastic Four (Bộ Tứ Siêu Phàm).
  • Operation: Zero Tolerance (Chiến dịch Zero Tolerance - 1997), đội quân chống Dị nhân được chính phủ bật đèn xanh để tiến hành một chiến dịch săn lùng những người đột biến.
X-Men tập 100, 2000. Claremont trở lại; hình của Art Adams
X-Men tập 100, 2000. Claremont trở lại; hình của Art Adams

Những tình tiết quan trọng khác bao gồm cuộc thảm sát (lại thảm sát) băng Morlocks; Iceman học được cách nâng cao năng lực của mình, giờ đây anh có thể đóng băng toàn thân; tên hung thủ sát hại gia đình Colossus và cuộc đào ngũ của hắn khỏi nhóm Acolytes của Magneto; Psylocke khám phá nguyên nhân việc cô ta biến đổi từ một người mẫu Anh thành một sát thủ châu Á; mối tình giữa Rogue và Gambit; Jean Grey thay biệt danh Marvel Girl thành Phoenix, để tôn trọng Rachel và thực thể ngoài vũ trụ. Rogue ra đi sau khi tình cờ tiếp cận ký ức của Gambit; Bishop đối phó với những ký ức rời rạc từ một thời điểm bất định nào đó; Psylocke và Archangel suýt nữa bị giết bởi Sabretooth, khiến họ rời khỏi nhóm; Wolverine biến thành một sinh vật đần độn kỳ quái sau khi bị Magneto lấy đi chất adamantium; Iceman rời nhóm để chăm sóc cha anh, khi ông bị tấn công bởi những kẻ bài xích người đột biến; và Gambit phơi bày một bí mật đen tối: anh ta là người đã tham gia Marauders dưới trướng Sinister.

Thập niên 1990 chứng kiến một số lương lớn X-Books, với những loại truyện cả dài lẫn ngắn ra đời. Truyện dài có Generation X, với sự gia nhập của một nhóm dị nhân thiếu niên khác, và X-Man, có thêm một Dị nhân trẻ đầy quyền năng (Nate Grey - phiên bản kế thừa của Cable) đến từ Age of Apocalypse (Thời đại Apocalypse). Hãng Marvel còn ấn hành các loạt truyện đơn cho nhiều nhân vật như Cable, Gambit, BishopDeadpool, một tay sát thủ đối lập với X-Force. Năm 1998, hai tập truyện ExcaliburX-Factor chấm dứt, thay thế bằng loạt truyện Mutant X với sự gia nhập của Havok.

[sửa] Cuối thập niên 1990, đầu thập niên 2000 - Thời kỳ tái tổ chức

Khi "Chiến dịch Zero Tolerance" chấm dứt năm 1997, nhiếu nhân vật chính như Bishop, Gambit, Jean Grey và Cyclops ly khai X-Men. Các tác giả đã lắp ghép một nhóm mới gồm Wolverine, Rogue, Beast, Storm và nhiều tân binh khác:

  • Cannonball (Sam Guthrie), cựu thành viên của The New Mutants và X-Force, có thể bay với vận tốc của động cơ phản lực.
  • Joseph, hiện tại được cho là một bản sao về trí óc (và trẻ hóa) của Magneto.
  • Marrow (Sarah), cựu thành viên Morlocks, có thể dùng những khớp xương nhô ra làm kiếm hoặc dùi cui.
  • Maggott (Japheth), một người Nam Phi có hệ tiêu hóa giống hình dáng một con giòi khổng lồ, cho phép anh ta tiêu hóa mọi thứ vật chất.
  • Cecilia Reyes, một bác sĩ người Puerto Rico có thể tạo ra một trường bảo vệ bao bọc cơ thể.

(Còn có một vài sự kiện khác như Joe Kelly/Steve Seagle bỏ trốn, kết nạp lại các thành viên Excalibur/Professor X/Gambit - nhưng lúc đó các tác giả bị bắt buộc phải làm như vậy nên khó có thể coi là một diễn tiến thuộc về loạt truyện.)

Khi tác giả kiêm họa sĩ Alan Davis bắt đầu viết cốt truyện cho X-Men, ông giảm bớt nhóm này, giữ lại Marrow, Rogue, Storm, Wolverine; và gởi Shadowcat, Nightcrawler, Colossus, Gambit và Professor X về nhà. Người hâm mộ đã chú ý tới Davids - khi ông vẽ tranh cho loạt X-Men còn Adam Kubert là họa sĩ của Uncanny X-Men và cho ra đời loạt truyện Magneto War (Cuộc chiến với Magneto) - một thành công tương đối, nhưng hãng Marvel đã kết thúc nó khi Claremont đồng ý quay lại đầu năm 2000 để viết cốt truyện cho cả hai dòng X-Men.

Với sự kiện Revolution (Cuộc cách mạng), hãng Marvel tạm ngưng ấn hành các bản X-Books trong sáu tháng, để Claremont và các họa sĩ có thể hoàn tất việc duyệt lại chúng. (Một loạt truyện ngắn về sau, X-Men: Black Sun, đã lấp vào khoảng hổng này), Claremont lập ra một nhóm thành viên quen thuộc của "X-Men": Wolverine, Rogue, Colossus, Shadowcat, Psylocke và Thunderbird mới: người có thể sai khiển lửa có tên gọi Neal Shaara. Một nhóm phụ xuất hiện trong "Uncanny X-Men" gồm Gambit, Storm, Phoenix, Beast và Cable, thủ lĩnh nhóm X-Force trước kia. Claremont cũng giới thiệu thêm đồng minh "Tessa" của Hellfire Club trước đây, bây giờ có tên Sage. Nhân vật này sở hữu năng lực ngoại cảm và não bộ hoạt động như một máy tính, và là thành viên của câu lạc bộ quý tộc trong nhiều năm đến khi bị phát hiện làm điệp viên cho Professor X.

Những kịch bản lan man và những nhân vật phản diện mới không chút ấn tượng đã ảnh hưởng đến sự trở về của Claremont, và Tổng biên tập mới của Marvel Joe Quesada đã cách chức ông ta sau hai ấn bản đầu năm 2001. Quesada chỉ định Claremont và họa sĩ Salvador Larroca vào một tên truyện mới, X-Treme X-Men, với Sage, Psylocke, Bishop, Gambit, Thunderbird, Rogue và Storm hoạt động ngoài nhóm X-Men, giống như đã từng làm với West Coast Avengers vào cuối thập niên 1980 - đầu thập niên 1990.

Cùng lúc đó, Marvel chấm dứt các loạt truyện Gambit, Bishop, X-Man, Mutant X, Generation X, và X-Force. Mặc dù tình hình kinh doanh những loạt truyện này khá khả quan, Quesada lý giải rằng việc có quá nhiều truyện về các siêu anh hùng bị đột biến chỉ tổ rườm rà vô ích.

Marvel phát hành một vài truyện mới, không theo mô típ "chiến đấu vì một thế giới ghét và sợ dị nhân" nữa, gồm có:

  • Weapon X, một nhóm đánh thuê có Sabretooth, Marrow và nhiều nhân vật có vuốt-sắc khác.
  • Exiles, một nhóm dị nhân trong thế giới song song.
  • X-Force mới (về sau đổi tên thành X-Statix), loạt truyện về nhóm các siêu anh hùng đột biến hoạt động công khai dưới sự bảo trợ của các tập đoàn.
New X-Men tập 114, 2001, Grant Morrison xuất hiện; hình của Frank Quitel
New X-Men tập 114, 2001, Grant Morrison xuất hiện; hình của Frank Quitel

Những thay đổi mạnh mẽ khác của thời kỳ này gồm cái chết của các nhân vật Colossus và Psylocke; bí ẩn của Wolverine dần sáng tỏ trong loạt truyện Wolverine: Origins (Nguồn gốc Wolverine) đầu năm 2001.

Năm 2001 là sự xuất hiện của tác giả Grant Morrison và họa sĩ Frank Quitely, X-Men được đổi tên thành New X-Men, với sự ra mắt của Beast, Jean Grey, Professor X, Cyclops, Wolverine và Emma Frost, người trước đây là White Queen của Hellfire Club. Nhóm mới khoác bộ trang phục bằng da đen bóng (giống như trong bộ phim điện ảnh X-Men năm 2000), và thu nhận thêm các học viên thiếu niên vào Trường học Xavier. New X-Men nổi tiếng với những ý niệm khoa học giả tưởng đa phương diện, những bước ngoặt bất ngờ như sự kiện E Is For Extinction (Nợ nần sòng phẳng), nói về cuộc tàn sát 16 triệu người ở Genosha của nhân vật phản diện mới Cassandra Nova, hay những thay đổi gây tranh cãi về tính cách nhân vật. Một trong những tinh tiết gây tranh cãi của Morrison là để cho Cyclops ngoại tình với Emma Frost.

Uncanny X-Men cũng được tân trang lại dưới bàn tay của Joe Casey và họa sĩ Ian Churchill (sau đó chuyền tay liên tiếp qua Chuck Austen và nhiều họa sĩ khác). Trong khi "New X-Men" tập trung vào lớp học của nhóm năm người Cyclops, "Uncanny" tập trung vào các thành viên bên ngoài và những chuyến phiêu lưu hành động theo truyền thống, với thủ lĩnh Archangel và các thành viên Iceman, Nightcrawler cùng một số nhân vật khác:

  • Chamber (Jono Starsmore), cựu thành viên Generation X có bộ ngực chứa đầy năng lượng psionic
  • Stacy X (Miranda Leevald), từng là gái điếm, có thể điều khiển chất hóa học pheromones
  • Northstar, (Jean-Paul Beaubier), cựu thành viên đội Alpha Flight
  • Husk, (Paige Guthrie), em của Cannonball và là cựu thành viên Generation X, có thể tự lột da để lộ phần cơ thể rắn chắc bên trong.
  • Juggernaut (Cain Marko), anh kế của giáo sư Xavier, tội phạm và là kẻ thù của X-Men từ giữa thập niên 1960 (Austen đã cho Juggernaut chuộc lỗi trong một số tình tiết được người hâm mộ chấp nhận)

Austen cũng đưa vào Polaris, Jubilee và Havok, người đã rơi vào quên lãng sau khi loạt truyện Mutant X bị chấm dứt. Tuy nhiên Casey và Austen đã bị phản ứng dữ dội. Nhiếu nhà phê bình đánh giá Uncanny X-Men quá sáo mòn (so với những cuộc phiêu lưu của New X-Men), còn người hâm mộ thì phản đối những thay đổi của ấn bản này, bao gồm việc cho Nigthcrawler là một linh mục Công giáo, sự biến đổi tính cách của Polaris (làm cô trở thành kẻ khủng bố tâm thần), và chuyện tình lãng mạn gây tranh cãi giữa Archangel với Husk (Husk chỉ mới 18 tuổi, nhỏ hơn Archangel tới 10 tuổi).

Trong lúc đó, loạt truyện "X-Treme X-Men" giới thiệu thêm hai nhân vật mới:

  • Lifeguard (Heather Cameron), có cơ thể thích nghi với mọi đe dọa bên ngoài.
  • Slipstream (Davis Cameron), anh của Lifeguard, có thể chuyển dịch từ xa bằng cách tạo ra "Sóng bẻ cong không gian" (Warp Wave).

Một loạt truyện X-Men ưa thích khác là Ultimate X-Men của tác giả Mark Millar và họa sĩ Adam Kubert, họ đã viết lại phiên bản X-Men mới dành cho lứa tuổi thiếu niên và tạo thích thú cho các độc giả mới. Ultimate X-Men là một phần của Ultimate Marvel Universe, bên cạnh Ultimate Spider-ManUltimates.

Những sự kiện nổi bật trong giai đoạn này có thể kể đến Dream's End (Vỡ mộng), Eve of Destruction (Eva của sự huỷ diệt), E Is For Extinction (Nợ nần sòng phẳng), Planet X (Hành tinh X), Gifted (Tài năng bẩm sinh), Phoenix: The Endsong (Phượng Hoàng: Bài ca cuối cùng).

[sửa] Giữa thập niên 2000

[sửa] Thời kỳ mới

Astonishing X-Men tập 1, Ấn bản đầu tiên của Joss Whedon
Astonishing X-Men tập 1, Ấn bản đầu tiên của Joss Whedon

Năm 2004, Morrison ngưng loạt truyện New X-Men, hãng Marvel bắt tay chuẩn bị cho "Giai đoạn chuyển tiếp Morrison". Marvel chấm dứt X-Treme X-Men và kéo Claremont quay lại với Uncanny X-Men. Nhóm mới, gồm có Storm, Wolverine, Bishop, Sage, Marvel Girl, Nightcrawler và Cannonball, hoạt động dưới quyền hạn của Liên hiệp quốc trong vai trò Đội Siêu Phản Ứng X.S.E (X-Treme Sanctions Executive). Họ có toàn quyền hành động và được các chính phủ công nhận địa vị ngang với nhóm Avengers trong vai trò giám sát hành vi của các dị nhân trên toàn thế giới. Còn loạt truyện New X-Men một lần nữa đổi thành X-Men, với các thành viên Havok, Polaris, Iceman, Rogue, Gambit, Juggernaut. Hãng Marvel còn phát hành Astonishing X-Men do Joss Whedon viết cốt truyện (tác giả loạt phim truyền hình Buffy the Vampire Slayer) cùng họa sĩ John Cassaday (họa sĩ của truyện Planetary). Các nhân vật trong Astonishing X-Men gồm Cyclops, Frost, Beast, Shadowcat, Wolverine. Để chuẩn bị cho ba nhóm mới, Cyclops đã bỏ các trang bị bằng da và quay lại kiểu trang phục cũ, thẳng thắn loại bỏ Archangel, Husk, Jubilee và Northstar khỏi vai trò thường trực.

Astonishing X-Men tạo nên một cú hích cho giới truyện tranh bởi những tình tiết và lời thoại của Whedon, và tranh vẽ theo phong cách như thật của John Cassaday. Một số phong cách tỏ ra thành công nhờ vào cách ra mắt đơn giản vừa phải, khác hẳn với nhiều ấn phầm X-Men (đặc biệt trong thập niên 1990) có cốt truyện dài lê thê rối rắm và hình ảnh sặc sỡ khiến các nhân vật bị lu mờ. Loạt truyện mới còn hồi sinh Colossus, một nhân vật rất dược hâm mộ. Psylocke cũng hồi sinh trong Uncanny X-Men (Claremont đã nuôi ý định này từ sau cái chết của cô ta trong X-Treme X-Men, nhưng không được cho phép bởi quan điểm "chết là chết luôn" lúc đó).

Hãng Marvel cũng phát hành thế hệ truyện ăn theo mới, gồm District X, nói về Bishop kiểm soát một dị nhân lân cận Thành phố New York; New X-Men: Academy X, thay thế cho New Mutants (vol. 2) đề cập đến các học viên của Xavier; và Excalibur mới, trong đó Magneto và Professor X tái thiết lại Genosha. Rogue, Nightcrawler, Gambit và Jubilee xuất hiện trong những loạt truyện dành riêng, mặc dù Jubilee bị chấm dứt sau sáu tập, và được phát hành với số lượng ít ỏi nhất so với những ấn phẩm ăn theo khác. Gambit và Rogue mỗi người chỉ xuất hiện trong mười hai tập.

Marvel chấm dứt X-Statix khi tác giả Peter Milligan và Mike Allred ngưng sáng tác. Milligan thay thế Chuck Austen để viết cốt truyện cho X-Men (chữ "New" bị bỏ đi) vào tháng 1 năm 2005.

Trong lúc đó, loạt truyện dài NYX giới thiệu nhân vật X-23, một thiếu nữ là bản sao của Wolverine xuất hiện lần đầu trong loạt phim hoạt hình X-Men: Evolution. X-23 nhập học trong New X-Men sau khi trợ giúp nhóm Uncanny X-Men. Đây là lần thứ ba hãng Marvel đưa một nhân vật từ phim truyền hình vào truyện tranh; lần đầu là Firestar từ phim hoạt hình Spider-Man and His Amazing Friends (Người Nhện và những người bạn kỳ quái), người từng có mặt trong Uncanny X-Men rồi tham gia vào nhóm New Warriors (Tân Chiến binh) và sau đó là Avengers. Lần thứ hai là Morph trong hoạt hình X-Men Animated Series, sau đó tái xuất hiện trong Age of Apocalypse (Thời đại Apocalypse). (DC Comics cũng từng làm tương tự vào năm 1990, khi đưa nhân vật Harley Quinn của phim hoạt hình Batman: The Animated Series vào loạt truyện DC Universe.)

[sửa] Ngôi nhà M/Cuộc khủng hoảng

Sự kiện chính trong năm 2005 là House of M (Ngôi nhà M), dẫn tới một cuộc khủng hoảng (Decimation) trong cộng đồng dị nhân, làm hàng triệu người đột biến bị mất năng lực, có cả Magneto và Professor X. Sau đó là biến cố Deadly Genesis (Căn nguyên chết người), với sự khám phá những bộ xương trong nhà vệ sinh của Xavier, khiến ông và Cyclops trở thành thù địch với nhau; một nhân vật hung ác khác xuất hiện là Vulcan, em của Cyclops. Wolverine cũng khôi phục hoàn toàn ký ức trong diễn tiến của loạt truyện Wolverine: Origins.

Một số các sự kiện ngắn khác là Son of M (Hậu duệ M), Generation M (Thế hệ M) và The 198 (Hồ sơ 198) tập trung vào những dị nhân bị mất năng lực, tất cả đều xuất hiện trong New X-Men. Apocalypse hồi sinh khi Cable trở lại, biến đổi Polaris và Gambit sang phe ác của hắn, tuy nhiên cả hai đã được cứu thoát sau đó.

Trong lúc đó, The Avengers và Magneto giao du với các dị nhân thất lạc trong The Collective. Sư kiện House of M cũng dẫn đến một biến cố trong năm 2006: Civil War (Nội chiến). Chris Claremont chuyển sang phụ trách New Excalibur. Giáo sư Xavier thành lập một nhóm mới sau biến cố Deadly Genesis, trong khi Ed Brubaker tiếp quản bộ Uncanny X-Men.

Astonishing X-Men tiếp tục thành công, tuy nhiên vì tác giả Whedon ký hợp đồng mới phát hành thêm 12 tập (sau bản hợp đồng 12 tập ban đầu), nên trong năm 2006 truyện được phát hành 2 tháng/lần để có thể hoàn tất phần tình tiết mở rộng. Whedon đã đưa Emma Frost trở lại vai trò phản diện. Bên bộ X-Men, Rogue lãnh đạo một nhóm dị nhân mới, bao gồm những nhân vật vừa chuyển sang phe thiện như Mystique và Sabretooth. Loạt truyện New X-Men thì có sự trở lại của William Stryker

[sửa] Phản ánh những vấn đề xã hội

Sự va chạm giữa dị nhân và người thường được so sánh với những va chạm của các thành phần thiểu số trong nước Mỹ, như người Do Thái, người Mỹ gốc Phi, đảng Cộng sản, người đồng tính, Công giáo, ... Ở mức độ đặc biệt, một số dị nhân còn mang những năng lực mang tính ẩn dụ về những người không hòa nhập vào cộng đồng. Các dị nhân bị ghét bỏ, sợ hãi và khinh miệt chỉ vì vì một lý do duy nhất: họ là dị nhân. Vì vậy loạt truyện X-Men, dù có chấp nhận hay không, là một truyện nói về sự phân biệt chủng tộc, sự mù quáng và thành kiến.

  • Phân biệt chủng tộc: Professor X được so sánh với người dẫn đầu phong trào đòi quyền bình đẳng cho người Mỹ gốc Phi, Martin Luther King Jr. và Magneto được so sánh với những chiến sĩ Malcolm X. Mục tiêu của các dị nhân đôi khi được đề cập là nhằm hoàn thành "mơ ước của Xavier", có thể ám chỉ đến bài diễn thuyết nổi tiếng lịch sử của King "I Have a Dream" (Tôi có một giấc mơ). Magneto, trong bộ phim đầu tiên, đã dẫn giải một câu nói của Malcom X "Bằng bất cứ giá nào". Truyện tranh X-Men thường phác họa những người đột biến là nạn nhân của bạo lực quần chúng (mob violence), gợi lên hình ảnh những cuộc hành hình người Mỹ gốc Phi vào thời điểm trước cuộc vận động vì quyền công dân Mỹ (American Civil Rights Movement (1955-1968)). Những người máy Sentinel làm người ta liên tưởng đến những lực lượng đàn áp như hội kín KKK, một hình thức phủ nhận quyền bình đẳng và phục thiện. Trong thập niên 1980, loạt truyện đã giới thiệu một đảo quốc hư cấu ngoài khơi châu Phi, nơi các dị nhân bị cách ly và nô dịch bởi một chính phủ phân biệt chủng tộc. Diễn giải rộng ra thì đó là sự ám chỉ tình trạng của Nam Phi lúc bấy giờ.
  • Đa dạng hóa: Những nhân vật xuất hiện trong X-Men đến từ nhiều quốc gia khác nhau. Họ đại diện cho tôn giáo, chủng tộc và một thiểu số về giới tính. Gốc Do Thái có Shadowcat và Sabra, Dust là một người tôn sùng đạo Hồi. Nightcrawler theo Công giáo và Thunderbird III là một tín đồ Hindu. Karma, thành viên cốt cán của nhóm New Mutants, được khắc họa là một người sùng đạo Công giáo và xưng tội đều đặn. Ngoài ra còn có Wolfsbane (thành viên giáo hội Scotland), Danielle Moonstar (thổ dân Cheyenne nước Mỹ), Cannonball (Baptist) và Magma (theo tôn giáo La Mã cổ đại).
  • Đồng tính: Một sự ẩn dụ khác của X-Men là quyền của người đồng tính. Sự so sánh hai bên thể hiện ở việc các dị nhân phải che giấu năng lực của họ và lứa tuổi mà họ khám phá thấy điều đó. Có thể minh họa bằng một cảnh trong bộ phim X2: Liên minh dị nhân, được đạo diễn bởi Bryan Singer, một người chủ trương công khai tình trạng đồng tính, khi Bobby Drake hé lộ cho cha mẹ thấy mình là một dị nhân. Mẹ Bobby đã hỏi "Con có từng thử không làm một dị nhân chưa?" Ngoài ra, trong tập phim đầu tiên có đoạn Thượng nghị sỹ Robert Kelly được hỏi có nên cho phép các dị nhân dạy dỗ trẻ em trong trường hay không, phản ánh cuộc tranh luận ở khu vực 28 mà Sir Ian McKellen (người đóng vai Magneto trong phim) có dính líu. Những nhân vật đồng tính và lưỡng tính có thể kể đến Northstar, Karma, một học viên nhỏ tuổi là Alone, và những kẻ đối lập với X-Men một thời gian dài như Destiny và Mystique.
  • AIDS: Tập truyện đề cập đến căn bệnh AIDS suốt đầu thập niên 1990 với những tình tiết kéo dài về Legacy Virus, một căn bệnh hầu như vô phương cứu chữa nhắm vào các dị nhân. Tình tiết này cũng xuất hiện trong phim hoạt hình X-Men đầu những năm 1990.
  • Nỗi sợ Đỏ: Thỉnh thoảng có thể thấy sự thể hiện ngầm của cái gọi là Nỗi sợ Đỏ. Đề xuất của Thượng nghị sỹ Robert Kelly về một "Đạo luật Đăng ký người đột biến" (Registration Acts) tương tự như nỗ lực của Quốc hội Mỹ để cấm hoàn toàn chủ nghĩa cộng sản. Trong bộ phim X-Men năm 2000, Kelly đã gào lên "chúng ta cần phải biết các dị nhân là ai và họ đang làm gì", thậm chí còn tung ra một "danh sách" những dị nhân đã được biết (ám chỉ bản danh sách các thành viên Đảng Cộng sản Hoa Kỳ của Thượng nghị sỹ Joseph McCarthy).
  • Bài xích Do Thái: Một sự ám chỉ rõ ràng trong những thập niên gần đây, đó là sự so sánh việc chống dị nhân với chống Do Thái. Magneto, một người sống sót sau thảm họa diệt chủng của Đức quốc xã, đã nhận thấy tình trạng của người đột biến chẳng khác gì những người Do Thái trong các trại tập trung. Thậm chí có lúc ông ta còn phát biểu "never again" (không bao giờ lặp lại) trong phim hoạt hình X-Men vào năm 1992. Trong truyện tranh, Magneto thường tím cách xây dựng một "xứ sở cho những người đột biến", tương tự như sự thành lập Israel hiện tại. Những trại nô lê dị nhân trên đảo Genosha, nơi đóng dấu hiệu lên trán của họ, giống y như những gì diễn ra ở trại tập trung của Đức quốc xã, những trại giam trong sự kiện Days of Future Past (Ngày quá khứ của tương lai) cũng vậy. Một dấu hiệu ám chỉ khác là trong tập phim X-Men thứ ba, khi được Spike hỏi: "Nếu ông là người đột biến, vậy dấu ấn của ông đâu?" Magneto đã trưng ra dấu khắc trong trại tập trung, và nói rằng bất cứ ai cũng đừng hòng chạm vào da của ông ta được nữa.
  • Bài xích Thiên Chúa giáo: Trong các tập truyện X-Books (truyện ăn theo X-Men) có một mối liên hệ ẩn dụ giữa sự bài xích Thiên Chúa giáo và sự vu khống X-Men, làm cho họ bị xa lánh. Giống như Thiên Chúa giáo, bị hồ nghi và ghê sợ trong những năm đầu lịch sử nước Mỹ bởi lòng trung thành với Giáo hoàng nước ngoài, các dị nhân cũng bị nghi ngờ liệu họ có vừa chấp hành luật pháp như những công dân bình thường vừa trung thành với "động cơ của dị nhân" (mutant cause) hay không. Một số thành viên X-Men theo đạo Thiên Chúa có thể kể đến Nightcrawler, Havok, Gambit, Siryn, Banshee, Sunspot, Skin và Karma.
  • Một nền văn hóa thu nhỏ: Trong một số trường hợp, đặc biệt trong những câu chuyện của tác giả Grant Morrison đầu thập niên 2000, các dị nhân được khắc họa như một nền văn hóa thu nhỏ đặc trưng, với những "băng nhóm người đột biến" và những nhà thiết kế thời trang tạo ra các trang bị phù hợp với năng lực của từng dị nhân. Trong loạt truyện Distinct X, trong lòng Thành phố New York tồn tại một nơi gọi là "thành phố người đột biến". Những sự thể hiện này giống như cách mà các thành phần thiểu số tự xây dựng nền văn hóa cho riêng mình, tách biệt họ với nền văn hóa chung bao la. Đạo diễn Bryan Singer đã bình luận rằng thương hiệu X-Men có tính ẩn dụ với việc chấp nhận mọi cá thể bất chấp những năng khiếu đặc biệt và độc nhất của họ. Tình trạng giấu mình của người đột biến cũng tương tự như cảm giác xa cách và e sợ của con người suốt trong quá trình phát triển thời niên thiếu.
  • Cá tính: Trong một số nhân vật, những nội dung ẩn dụ được trình bày theo hướng cá nhân hơn là chính trị. Thí dụ Cyclops luôn luôn phải mang một loại mắt kính đặc biệt để kiểm soát năng lực của mình, dẫn đến một cảm giác bị ức chế tình cảm ngày càng tăng; Rogue, với những năng lực khiến cô phải tránh mọi tiếp xúc trực tiếp với người khác, luôn có cảm giác cô đơn khủng khiếp; và thiên tài khoa học Beast, người có bề ngoài lông lá như cầm thú, luôn phải đấu tranh với nhận thức rằng anh là một sinh vật quái dị. Theo đó, tác động xa lánh khỏi tinh thần và niềm hạnh phúc của người thường luôn được bộc lộ trong loạt truyện.

[sửa] Liên kết tham khảo

Static Wikipedia 2008 (no images)

aa - ab - af - ak - als - am - an - ang - ar - arc - as - ast - av - ay - az - ba - bar - bat_smg - bcl - be - be_x_old - bg - bh - bi - bm - bn - bo - bpy - br - bs - bug - bxr - ca - cbk_zam - cdo - ce - ceb - ch - cho - chr - chy - co - cr - crh - cs - csb - cu - cv - cy - da - de - diq - dsb - dv - dz - ee - el - eml - en - eo - es - et - eu - ext - fa - ff - fi - fiu_vro - fj - fo - fr - frp - fur - fy - ga - gan - gd - gl - glk - gn - got - gu - gv - ha - hak - haw - he - hi - hif - ho - hr - hsb - ht - hu - hy - hz - ia - id - ie - ig - ii - ik - ilo - io - is - it - iu - ja - jbo - jv - ka - kaa - kab - kg - ki - kj - kk - kl - km - kn - ko - kr - ks - ksh - ku - kv - kw - ky - la - lad - lb - lbe - lg - li - lij - lmo - ln - lo - lt - lv - map_bms - mdf - mg - mh - mi - mk - ml - mn - mo - mr - mt - mus - my - myv - mzn - na - nah - nap - nds - nds_nl - ne - new - ng - nl - nn - no - nov - nrm - nv - ny - oc - om - or - os - pa - pag - pam - pap - pdc - pi - pih - pl - pms - ps - pt - qu - quality - rm - rmy - rn - ro - roa_rup - roa_tara - ru - rw - sa - sah - sc - scn - sco - sd - se - sg - sh - si - simple - sk - sl - sm - sn - so - sr - srn - ss - st - stq - su - sv - sw - szl - ta - te - tet - tg - th - ti - tk - tl - tlh - tn - to - tpi - tr - ts - tt - tum - tw - ty - udm - ug - uk - ur - uz - ve - vec - vi - vls - vo - wa - war - wo - wuu - xal - xh - yi - yo - za - zea - zh - zh_classical - zh_min_nan - zh_yue - zu -

Static Wikipedia 2007 (no images)

aa - ab - af - ak - als - am - an - ang - ar - arc - as - ast - av - ay - az - ba - bar - bat_smg - bcl - be - be_x_old - bg - bh - bi - bm - bn - bo - bpy - br - bs - bug - bxr - ca - cbk_zam - cdo - ce - ceb - ch - cho - chr - chy - co - cr - crh - cs - csb - cu - cv - cy - da - de - diq - dsb - dv - dz - ee - el - eml - en - eo - es - et - eu - ext - fa - ff - fi - fiu_vro - fj - fo - fr - frp - fur - fy - ga - gan - gd - gl - glk - gn - got - gu - gv - ha - hak - haw - he - hi - hif - ho - hr - hsb - ht - hu - hy - hz - ia - id - ie - ig - ii - ik - ilo - io - is - it - iu - ja - jbo - jv - ka - kaa - kab - kg - ki - kj - kk - kl - km - kn - ko - kr - ks - ksh - ku - kv - kw - ky - la - lad - lb - lbe - lg - li - lij - lmo - ln - lo - lt - lv - map_bms - mdf - mg - mh - mi - mk - ml - mn - mo - mr - mt - mus - my - myv - mzn - na - nah - nap - nds - nds_nl - ne - new - ng - nl - nn - no - nov - nrm - nv - ny - oc - om - or - os - pa - pag - pam - pap - pdc - pi - pih - pl - pms - ps - pt - qu - quality - rm - rmy - rn - ro - roa_rup - roa_tara - ru - rw - sa - sah - sc - scn - sco - sd - se - sg - sh - si - simple - sk - sl - sm - sn - so - sr - srn - ss - st - stq - su - sv - sw - szl - ta - te - tet - tg - th - ti - tk - tl - tlh - tn - to - tpi - tr - ts - tt - tum - tw - ty - udm - ug - uk - ur - uz - ve - vec - vi - vls - vo - wa - war - wo - wuu - xal - xh - yi - yo - za - zea - zh - zh_classical - zh_min_nan - zh_yue - zu -

Static Wikipedia 2006 (no images)

aa - ab - af - ak - als - am - an - ang - ar - arc - as - ast - av - ay - az - ba - bar - bat_smg - bcl - be - be_x_old - bg - bh - bi - bm - bn - bo - bpy - br - bs - bug - bxr - ca - cbk_zam - cdo - ce - ceb - ch - cho - chr - chy - co - cr - crh - cs - csb - cu - cv - cy - da - de - diq - dsb - dv - dz - ee - el - eml - eo - es - et - eu - ext - fa - ff - fi - fiu_vro - fj - fo - fr - frp - fur - fy - ga - gan - gd - gl - glk - gn - got - gu - gv - ha - hak - haw - he - hi - hif - ho - hr - hsb - ht - hu - hy - hz - ia - id - ie - ig - ii - ik - ilo - io - is - it - iu - ja - jbo - jv - ka - kaa - kab - kg - ki - kj - kk - kl - km - kn - ko - kr - ks - ksh - ku - kv - kw - ky - la - lad - lb - lbe - lg - li - lij - lmo - ln - lo - lt - lv - map_bms - mdf - mg - mh - mi - mk - ml - mn - mo - mr - mt - mus - my - myv - mzn - na - nah - nap - nds - nds_nl - ne - new - ng - nl - nn - no - nov - nrm - nv - ny - oc - om - or - os - pa - pag - pam - pap - pdc - pi - pih - pl - pms - ps - pt - qu - quality - rm - rmy - rn - ro - roa_rup - roa_tara - ru - rw - sa - sah - sc - scn - sco - sd - se - sg - sh - si - simple - sk - sl - sm - sn - so - sr - srn - ss - st - stq - su - sv - sw - szl - ta - te - tet - tg - th - ti - tk - tl - tlh - tn - to - tpi - tr - ts - tt - tum - tw - ty - udm - ug - uk - ur - uz - ve - vec - vi - vls - vo - wa - war - wo - wuu - xal - xh - yi - yo - za - zea - zh - zh_classical - zh_min_nan - zh_yue - zu