Bành Đức Hoài
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bành Đức Hoài (24 tháng 10, 1898 – 29 tháng 11, 1974) (chữ Hán phồn thể: 彭德懷, chữ Hán giản thể: 彭德怀, bính âm: Péng Déhuái, phiên âm hệ la-tinh thổ âm Bắc Kinh: P'eng Te-huai) là tướng lĩnh quân sự xuất chúng của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, một trong mười Nguyên soái của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc.
Mục lục |
[sửa] Tuổi trẻ và lựa chọn sự nghiệp
Bành Đức Hoài sinh tại huyện Tương Đàm, tỉnh Hồ Nam. Rời gia đình năm 9 tuổi, ông làm việc ở mỏ than rồi ở các công trường xây đập bên Động Đình Hồ năm 13 và 15 tuổi. Năm 16 tuổi, ông gia nhập quân đội và từ đây theo đuổi sự nghiệp quân sự cho đến những năm cuối đời, tổng cộng 60 năm.
Năm 28 tuổi, Bành Đức Hoài đã là trung đoàn trưởng trong quân đội Trung Hoa Dân quốc và bắt đầu tiếp xúc với các chính khách. Ông rời bỏ hàng ngũ Quốc dân đảng, tránh cuộc thanh trừng của Tưởng Giới Thạch năm 1927. Gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc, rồi tham gia cuộc Vạn lý trường chinh, trong đó Bành Đức Hoài chỉ huy tập đoàn quân thứ ba.
[sửa] Sự nghiệp quân sự
Đóng góp của Bành Đức Hoài cho Đảng Cộng sản được trân trọng ghi nhận và Mao Trạch Đông gọi ông là Bành Đại tướng quân.
Bành Đức Hoài và Lâm Bưu được coi là hai tướng lĩnh xuất sắc hơn cả trong hàng ngũ Hồng quân. Họ không hề tỏ ra xung khắc nhau trong cuộc Vạn lý trường chinh. Cả hai đều ủng hộ sự lãnh đạo cao nhất của Mao Trạch Đông tại Diên An tháng 01 năm 1934.
Trong thời gian Chiến tranh kháng Nhật, Bành Đức Hoài là phó tổng tư lệnh quân đội của Đảng Cộng sản (Chu Đức là tổng tư lệnh). Ông thể hiện tài thao lược xuất sắc trong các hoạt động sau hậu phương quân Nhật Bản ở Bắc Trung Quốc. Sau khi quân Nhật đầu hàng quân Đồng minh năm 1945, cùng với Hạ Long, ông chỉ huy Hồng quân bao vây Bắc Kinh, chia cắt quân đội Trung Hoa Dân quốc ở đây với phần còn lại. Sau đó, trong chiến tranh Quốc – Cộng (1945-1949), ông là tư lệnh Tập đoàn quân số một giải phóng các tỉnh Cam Túc, Ninh Hạ, Thanh Hải và Thiểm Tây.
Chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) nổ ra, Bành Đức Hoài là tư lệnh Chí nguyện quân Trung Quốc. Ông còn là Bộ trưởng Quốc phòng, ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc, được phong hàm Nguyên soái Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc năm 1955.
Các sai lầm mang tính chiến lược trong cuộc chiến này làm 3 tập đoàn quân Trung quốc bị bắt giữ đưa đến uy tín của ông bị giảm sút trong Đảng. Ông hay có xung khắc với Nguyên soái Lâm Bưu và thường giành ưu thế.
[sửa] Xa rời quyền lực
Tháng 6 năm 1959, trong Hội nghị Lư Sơn, Bành Đức Hoài viết thư riêng cho Mao Trạch Đông, chân thành đề cập đến thất bại, tình cảnh tiêu điều của nền kinh tế khi thực hiện Chính sách Đại nhảy vọt. Bức thư này đã biến ông trở thành tội đồ trong Cách mạng văn hóa sau này. Mao Trạch Đông, tại Hội nghị Lư Sơn, đã quyết định công khai bức thư của Bành Đức Hoài và quy kết ông là tiêu cực. Với quyền lực của Mao Trạch Đông, toàn bộ Bộ Chính trị và Trung ương Đảng Cộng sản Trung quốc đứng về phía Mao Trạch Đông hoặc lặng im. Gần như tất cả đả kích Bành Đức Hoài mà Lâm Bưu là người đứng đầu.
Ông bị phê phán nặng nề năm 1959 bởi những nhận xét về Chính sách Đại nhảy vọt mà Mao Trạch Đông cho là không chấp nhận được. Chủ tịch Mao đồng ý rằng có một số sai sót nhưng nhìn chung là có tiến bộ tích cực. Bành Đức Hoài được gợi ý viết bản tự phê bình. Mao Trạch Đông, không còn nghi ngờ gì nữa, đối xử với ông như với kẻ thù. Nguyên soái bị đình chỉ mọi chức vụ, bị theo dõi và quản chế tại nhà riêng tại Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên. Người thay thế ông ở cương vị Bộ trưởng Quốc phòng là Lâm Bưu. Thực tế, Bành Đức Hoài bị lưu đày, bị xa lánh trong suốt 16 năm còn lại của cuộc đời.
Còn những nguyên nhân sâu sắc khác dẫn đến sự thất sủng năm 1959. Dưới sự điều hành của Bành Nguyên soái, quân đội phát triển theo chiều hướng chính quy, chuyên nghiệp và giảm tính chính trị. Những thay đổi này bị đảo ngược khi Lâm Bưu nắm quyền. Mặt khác Bành Đức Hoài có những dấu hiệu không đồng ý với việc sút giảm quan hệ thân thiện với Liên Xô. Tuy vậy, năm 1959, uy tín của Mao Trạch Đông dù vẫn bao trùm nhưng đã xuống thấp chưa từng thấy, việc phế truất Bành Đức Hoài không thể thực hiện được nếu những người khác cũng không nghi ngờ ông.
Năm 1966, trong cuộc Cách mạng Văn hóa, ông bị Hồng vệ binh bắt giữ, tra tấn và đánh đập. Ông qua đời ngày 29 tháng 11 năm 1974, trung thành với lý tưởng cộng sản và vẫn giữ những bất đồng ý kiến với Mao Trạch Đông.
[sửa] Phục hồi danh dự
Năm 1978, tại Hội nghị Trung ương lần thứ ba, khóa 11, Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, trường hợp của ông được xem xét lại, án oan của ông được cải chính và những đóng góp của ông với cuộc Cách mạng vô sản Trung Quốc được khẳng định.