Nguyễn Văn Cốc
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nguyễn Văn Cốc (sinh 1943) là một phi công huyền thoại của Việt Nam với thành tích kỷ lục bắn hạ 9 máy bay Mỹ trên bầu trời Bắc Việt Nam. Ông trở thành một Trung tướng của Quân đội Nhân dân Việt Nam và Anh hùng Quân đội Nhân dân Việt Nam.
[sửa] Cuộc đời và chiến công huyền thoại
Ông sinh năm 1943, quê tại xã Bích Sơn, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Thân sinh của ông là ông Nguyễn Văn Bảy, Chủ tịch Mặt trận Việt Minh huyện Việt Yên, Bắc Giang, bị quân Pháp giết chết vào năm 1947.
Năm 1961, khi đang học lớp 8, trường Ngô Sĩ Liên tại thị xã Bắc Giang, ông trúng tuyển kỳ thi chọn đào tạo phi công. Ông nhập ngũ và được đưa đi huấn luyện tại Trường dự khóa bay ở sân bay Cát Bi (Hải Phòng). Cuối năm đó, ông sang Liên Xô cùng đoàn huấn luyện phi công 120 người. Cuối năm 1965, khi về nước, ông là một trong 17 phi công MiG-17 trong tổng số 23 phi công. Sau khi về nước, ông được phiên chế về Trung đoàn 921 (Đoàn Không quân Sao Đỏ). Nhưng không lâu sau, lại được chọn để đi học chuyển loại máy bay MiG-21 ở Liên Xô một năm, rồi trở lại về đoàn Sao Đỏ vào đầu năm 1967. Trong các phi đội 2 chiếc ông tham gia không chiến, ông được phân công ở vị trí số 2 với mục đích bảo vệ cho số 1 tiêu diệt đối phương.
Ngày 30 tháng 4 năm 1967, ông xuất kích trong phi đội do phi công Nguyễn Ngọc Độ (cũng là một ACE của Việt Nam)làm phi đội trưởng. Trần không chiến diễn ra với các máy bay F-105 trên bầu trời Hòa Bình, Sơn La. Gặp thời cơ thuận lợi, sau khi phi đội trưởng bắn hạ một F-105, ông cũng chớp thời cơ bắn hạ thêm một chiếc F-105 nữa. Cả hai chiếc MiG đều về an toàn. Đây là chiếc máy bay đầu tiên ông bắn hạ, mở đầu cho thành tích của người phi công huyền thoại của các cuộc không chiến trên bầu trời Bắc Việt Nam.
Theo nguyên tắc chiến thuật phi đội 2 chiếc của MiG-21, số 2 chỉ có nhiệm vụ yểm trợ, quan sát đối phương giúp cho số 1 vào công kích. Nguyễn Văn Cốc cải tiến chiến thuật, cùng tham gia tiêu diệt máy bay đối phương, do đó, hiệu suất phi đội tăng lên. Trước kia do chỉ có số 1 công kích, tối đa phi đội chỉ bắn hạ được 2 máy bay đối phương (vì MiG-21 chỉ mang được 2 tên lửa). Theo chiến thuật cải tiến, phi đội của ông cao điểm có thể bắn hạ được 3 máy bay đối phương. Để đạt được điều này, số 2 phải phán đoán và hành động chớp thời cơ rất nhanh. Do chiến thuật cải tiến này, ông được đồng đội đặt cho biệt danh là Chim cắt số 2.
Với chiến thuật cải tiến,chỉ riêng trong năm 1967, ông đã bắn rơi 6 máy bay đối phương. Trong tổng số 9 chiếc, có 6 chiếc ông bắn hạ ở vị trí số 2. Từ đó, chiến thuật cải tiến được đưa vào huấn luyện và đem lại hiệu quả tốt giúp Không quân Việt Nam nâng cao hiệu suất trong một thời gian, khiến cho các phi công Mỹ cũng phải khâm phục.
Năm 1969, ông được tuyên dương Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân Việt Nam, với thành tích bắn hạ 9 máy bay Mỹ chỉ trong 2 năm. Trên chiếc MiG-21 PF, số máy bay ông bắn hạ được phía Việt Nam công bố gồm 9 chiếc, trong đó có 2 F-4, 5 F-105 và 2 máy bay trinh sát không người lái. Phía Mỹ cũng thừa nhận số máy bay bị ông bắn hạ gồm 7 chiếc, trong đó có 2 F-4D, 1 F-4B, 2 F-105F, 1 F-105D và 1 F-102A. Trong toàn bộ các cuộc không chiến trên bầu trời Bắc Việt Nam, ông có số bắn hạ máy bay cao nhất của cả Việt Nam và Mỹ. Ngoài ra, ông còn hỗ trợ đồng đội bắn hạ thêm 9 máy bay nữa. Khi đó, ông mới vừa 27 tuổi, hàm Đại úy Không quân.
Ông từng phải nhảy dù 2 lần. Một lần vào tháng 1 năm 1967, trong chiến dịch Bolo, ông bị bắn rơi khi vừa cất cánh do thiếu kinh nghiệm và chưa kịp phản ứng trước đối phương. Một lần khác ông phải bắt buột nhảy dù sau khi hết dầu lúc không chiến.
Sau năm 1969, ông được yêu cầu không tham gia chiến đấu nữa mà chuyển sang huấn luyện cho các phi công mới. Điều này cũng phù hợp với ý đồ giữ gìn các phi công xuất sắc (flying ace) của không quân Việt Nam thời bấy giờ (phi công MiG-17 Nguyễn Văn Bảy cũng được rút ra trong đợt này).
[sửa] Làm lãnh đạo trong Quân đội
Sau khi rút ra khỏi đơn vị chiến đấu, ông công tác trong Binh chủng Không quân. Năm 1990, ông được thăng hàm Thiếu tướng, giữ chức Phó tư lệnh Quân chủng Không quân. Từ năm 1996, ông là quyền Tư lệnh, rồi Tư lệnh Quân chủng. Năm 1999, ông được điều sang làm Chánh Thanh tra Bộ Quốc phòng, hàm Trung tướng.
Năm 2002, ông nghỉ hưu. Năm 2004, ông bị chấn thương cột sống do bị ngã cầu thang.
Ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1966, khi đang học tại Liên Xô. Ông được nhà nước Việt Nam tuyên dương:
- Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân Việt Nam
- 1 Huân chương Quân công hạng ba
- 1 Huân chương Chiến công hạng nhì
- 3 Huân chương Chiến công hạng ba