Trận Kiev (1941)
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Trận Kiev, 1941 | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Một phần của chiến tranh Xô-Đức trong Đại chiến thế giới lần thứ hai | |||||||
![]() Binh sỹ Hồng quân trên chiến trường phòng thủ Kiev |
|||||||
|
|||||||
Tham chiến | |||||||
![]() |
![]() ![]() |
||||||
Chỉ huy | |||||||
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() ![]() ![]() ![]() |
||||||
Lực lượng | |||||||
Trước chiến tranh cả quân khu Kiev và Odessa 1.412.000 người 26.580 đại bác, súng cối 8.064 xe tăng 4.696 máy bay. |
1.506.000 người 16.008 đại bác, súng cối 1.144 xe tăng 1.829 máy bay |
||||||
Thương vong | |||||||
số chết và bị thương:163 nghìn Bị bắt: khoảng 500-600 nghìn |
Số chết và bị thương: 150 nghìn |
Trận Kiev là trận đánh bao vây tiêu diệt lớn trong chiến tranh thế giới lần thứ hai diễn ra từ đầu tháng 7 đến cuối tháng 9 năm 1941. Trong trận đánh này cụm tập đoàn quân Nam kết hợp cùng cụm tập đoàn quân Trung tâm của Đức quốc xã trong chiến dịch Barbarossa đã bao vây và tiêu diệt gọn Phương diện quân Tây Nam của Liên Xô đang phòng thủ khu vực Kiev (Киев). Đây là chiến thắng quân sự to lớn nhất của quân đội Đức trong chiến tranh Xô-Đức đã tiêu diệt khối quân chủ lực mạnh nhất của Liên Xô. Trận Kiev cho đến nay vẫn là trận đánh bao vây tiêu diệt lớn nhất trong lịch sử quân sự thế giới. Theo số liệu năm 1993 của Bộ tổng tham mưu quân đội Liên bang Nga, trong trận Kiev quân đội Xô Viết bị tổn thất hơn 700 nghìn quân trong đó bị chết, bị bắt và mất tích là 627 nghìn sỹ quan và binh sỹ.
Mục lục |
[sửa] Phương diện quân Tây Nam những ngày cuối tháng 6 năm 1941
Ngày 22 tháng 6 năm 1941, quân đội Đức quốc xã tấn công bất ngờ Liên bang Xô Viết. Trong những trận đánh biên giới trải dài từ biển Baltic đến biển Đen trong thời gian vài ngày từ 22 tháng 6 đến 29 tháng 6 năm 1941, quân đội Xô Viết thua to và chịu những tổn thất vô cùng nặng nề:
Tại cánh Bắc mặt trận dưới các đòn tấn công của cụm tập đoàn quân Bắc của Đức, Phương diện quân Tây Bắc của Liên Xô rối loạn bị đánh lui đến tuyến sông Tây Dvina (Западная Двина) từ vịnh Riga (Рига) đến Daugavspils và sau đó bị ép đến tận cửa ngõ thành phố Leningrad (Ленинград). Liên Xô đã mất toàn bộ các nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Baltic và một phần lãnh thổ Nga.
Tại trung tâm mặt trận tại Belorussia (Белоруссия) cụm tập đoàn quân Trung tâm của Đức trong khoảng một tuần đánh tan Phương diện quân Tây Xô Viết. Hồng quân lùi đến trung tâm phòng thủ Minsk (Минск) và sau đó bị bao vây tiêu diệt tại đây. Quân Đức đã chiếm hoàn toàn Belorussia và thẳng tiến về phía Smolensk (Смоленск) – Moskva (Москва).
Cánh Nam chiến trường Xô-Đức tại Ukraina, cụm tập đoàn quân Nam của Đức: tư lệnh thống chế Gerd von Rundstedt bố trí tại Nam Ba Lan triển khai tấn công trên mặt trận trải dài từ bờ Nam đầm lầy sông Pripyatch (Припять) đến bờ Biển đen chiều rộng mặt trận khoảng 800-1000 km. Theo kế hoạch, quân Đức phải phát triển tấn công theo hướng Kiev chiếm Ukraina tiêu diệt khối chủ lực Xô viết tại bờ phải sông Dnepr (Днепр) và phối hợp với quân đội Romania phát triển tấn công theo bờ Biển Đen chiếm thành phố cảng lớn Odessa (Одесса), chiếm bán đảo Crimea và Sevastopol (Cевастополь) căn cứ chính của Hạm đội biển Đen Xô Viết. Cụm "Nam" gồm 3 tập đoàn quân bộ binh dã chiến số 6, 11 và 17, tập đoàn quân xe tăng số 1 của Đức cùng hai tập đoàn quân số 3, số 4 của Romania, tổng cộng 57 sư đoàn và 13 lữ đoàn với yểm trợ của hạm đội không quân số 4 Đức và không quân Romania. Đối chọi với cụm quân "Nam" là quân khu đặc biệt Kiev sau đổi thành phương diện quân Tây Nam của Liên Xô (tư lệnh - thượng tướng Mikhail Petrovich Kirponos) với 32 sư đoàn bộ binh, 16 sư đoàn xe tăng, 8 sư đoàn cơ giới, 2 sư đoàn kỵ binh, và quân khu đặc biệt Odessa sau đổi thành tập đoàn quân duyên hải (tư lệnh - trung tướng Yakovlev Timofeevich Cherevichenko) với 13 sư đoàn bộ binh, 4 sư đoàn xe tăng, 2 sư đoàn cơ giới và 3 sư đoàn kỵ binh. Đây là các lực lượng mạnh nhất của Hồng quân vì theo quan điểm phòng thủ của lãnh đạo Xô Viết nếu chiến tranh nổ ra, Ukraina là khu vực quan trọng sống còn về kinh tế sẽ là chiến trường chính.
Tại Ukraina trước chiến tranh, nếu so sánh lực lượng một cách tổng thể quân số hai bên tương đương. Về vũ khí Hồng quân áp đảo cả về số lượng xe tăng, pháo binh, máy bay. Nhưng các lực lượng Xô Viết biên chế xé lẻ đóng rải rác cách xa nhau hàng trăm ki-lô-mét. Và do những yếu kém về hậu cần, chỉ huy và trình độ sẵn sàng chiến đấu của Liên Xô, trong những ngày đầu chiến tranh Hồng quân đã không tận dụng được ưu thế số lượng. Trong các trận đánh quân Đức luôn tạo được ưu thế áp đảo.
Ngay những ngày đầu chiến tranh trong các trận đánh biên giới từ 22 tháng 6 đến 3 tháng 7 tập đoàn quân xe tăng số 1 của Ewald von Kleist và tập đoàn quân số 6 của Đức với lực lượng áp đảo đối phương đánh vào tuyến ngăn cách của hai tập đoàn quân Xô Viết số 5 và số 6 theo hướng Lusk (Луцк) – Rovno (Ровно) – Zhitomir (Житомир) – Kiev. Hệ thống phòng ngự biên giới của Hồng quân bị chọc thủng rộng đến 50 km và tập đoàn quân xe tăng Đức xuyên phá vào lỗ thủng này. Theo lệnh của Bộ tổng tư lệnh tối cao Xô Viết trong các ngày từ 23 đến 29 tháng 6 Phương diện quân Tây Nam tổ chức cuộc phản công bằng 6 quân đoàn xe tăng đó là trận đấu xe tăng lớn tại khu vực Dubno (Дубно), Lusk và Rovno. Mặc dù lực lượng xe tăng của Hồng quân tại Ukraina nhiều hơn xe tăng Đức, và Hồng quân có nhiều xe tăng loại tốt như T-34 và KV nhưng do chiến tranh nổ ra bất ngờ các đơn vị đang bố trí rải rác cách xa chiến trường nên khi được lệnh phản công các đơn vị này không thể đợi các đơn vị phối thuộc, phải di chuyển rất xa từ 200 đến 400 km, chịu các đòn oanh tạc rất ác liệt của không quân Đức đang khống chế tuyệt đối bầu trời nên đã tổn thất lớn và khi bước vào chiến đấu thì rời rạc không thể phối hợp có hiệu lực. Tuy nhiên cuộc phản công này đã làm chậm lại mũi tấn công của tập đoàn quân xe tăng của Kleist về phía Kiev.
Sau các trận đánh biên giới, cuối tháng 6 năm 1941, Phương diện quân Tây Nam của quân đội Xô viết tại Ukraina đã chịu những tổn thất rất nặng nề nhưng về cơ bản đã tránh được các đòn đánh thọc sườn, bảo vệ được lực lượng và rút lui có tổ chức về tuyến sông Slutch (Случь), sông Dnestr (Днестр) và sông Tây Bug (Западный Буг) để bảo vệ thủ đô Kiev.
[sửa] Quân Đức đột phá tại phía nam Kiev – trận Uman
Sau các trận đánh biên giới, theo ý đồ của Bộ tư lệnh tối cao Xô Viết, các tập đoàn quân của phương diện quân Tây Nam bỏ Tây Ukraina[1] lùi về tuyến biên giới cũ[2], dựa vào các trung tâm phòng thủ của "Phòng tuyến Stalin" đã được xây dựng lâu năm ở phía Tây Kiev là Korosten (Коростень) – Novograd-Volinsky (Новоград-Волынский) – Shepetovsky (Шепетовский) – Staro-Konstantinovsky (Старо-Константиновский) – Proskurovsky (Проскуровский) để lập tuyến phòng thủ vững chắc.
Ngày 7 tháng 7 năm 1941, xe tăng Đức chọc thủng "phòng tuyến Stalin" tại phía Nam trung tâm phòng ngự Novograd-Volinsky, quân Đức ào ạt tiến chiếm Berdichyev (Бердичев), Zhitomir (Житомир) đe dọa nghiêm trọng Kiev, và đến ngày 11 tháng 7, đã đến được sông Irpen (Ирпень) chỉ cách phía Tây Kiev 15-20 km. Quân Đức định chiếm thành phố trên đường hành tiến. Tại đây quân Đức đã gặp sự kháng cự mãnh liệt của tập đoàn quân số 37 Hồng quân của thiếu tướng Andrei Andreyevich Vlasov[3] (Андрей Андреевич Власов) bảo vệ trung tâm phòng ngự Kiev và đặc biệt là các cuộc phản công rất quyết liệt của tập đoàn quân số 5 Xô Viết dưới sự chỉ huy của thiếu tướng Mikhail Ivanovich Potapov[4] (Михаил Иванович Потапов). Trận đánh tại phía Tây và Tây Bắc Kiev kéo dài hơn nửa tháng giam chân hơn 10 sư đoàn của tập đoàn quân xe tăng Kleist và của tập đoàn quân số 6 Đức, cuối cùng hai tập đoàn quân Đức phải chuyển sang phòng ngự bỏ ý định đánh chiếm Kiev trong hành tiến và dừng bước tại tuyến Fastov (Фастов) – Belaya tserkov (Белая церковь).
Trong những ngày cuối tháng 7 năm 1941, đã xảy ra đột biến tại mặt trận Kiev. Sau khi gặp kháng cự rất mạnh tại phía Tây và Tây Bắc Kiev, cụm tập đoàn quân Nam của Đức bố trí lại lực lượng chuyển hướng tấn công xuống phía Nam Kiev. Tập đoàn quân số 6 Đức cùng tập đoàn quân xe tăng số 1 quay hướng tấn công theo hướng Đông Nam, đồng thời tập đoàn quân số 17 Đức tấn công mãnh liệt chọc thủng phòng tuyến Xô Viết tại khoảng giữa hai con sông Nam Bug và sông Dnestr. Các tập đoàn quân số 6 và số 12 của Liên Xô bị bao bọc từ hai cánh. Lúc này lãnh đạo Phương diện quân Tây Nam và Bộ tổng tư lệnh tối cao Liên Xô đã chậm chạp trong việc quyết định cho hai tập đoàn quân này bỏ tuyến phòng thủ để rút lui nên đến ngày 3 tháng 8 quân Đức đã hoàn thành hợp vây được hai tập đoàn quân số 6 và 12 Xô Viết tại khu vực Uman (Умань) – Pervomaisk (Первомайск) và đến ngày 13 tháng 8 kháng cự cuối cùng của khối quân bị vây đã chấm dứt hoàn toàn. Đây là đòn nặng làm cho tình thế của Phương diện quân Tây Nam đã trở nên rất nguy hiểm.
Đáng lẽ ra đến lúc này quân đội Xô Viết phải bỏ Kiev để còn kịp rút lui bảo toàn lực lượng nhưng cơ hội này đã bị bỏ lỡ.
[sửa] Quân Đức hợp vây tại bờ Đông sông Dnepr – phương diện quân Tây Nam Xô Viết bị tiêu diệt

Trong trận Smolensk, trong giải tấn công của Cụm tập đoàn quân Trung tâm của Đức, khi không thể đột phá trực tiếp về phía đông qua hướng Smolensk – Moskva, quân Đức tấn công dò tìm điểm yếu trong tuyến phòng thủ của Hồng quân, điểm yếu đó là phương diện quân Trung Tâm của Xô Viết trên hướng Gomel (Гомель) tại phía nam Smolensk. Cuối tháng 7, cụm tập đoàn quân Trung tâm của Đức chọc thủng phòng tuyến của phương diện quân Trung tâm của Xô Viết ào ạt tấn công theo hướng Bắc – Nam về phía Gomel và chiếm thành phố này ngày 20 tháng 8 năm 1941. Quân Đức đe doạ nghiêm trọng sườn phải của phương diện quân Tây Nam của Liên Xô đang phòng thủ hướng Kiev. Với triển vọng đánh vào lưng và bao vây tiêu diệt cụm quân Xô Viết tại Kiev, Hitler ra lệnh cho cụm quân Trung tâm tạm dừng tấn công trên hướng Moskva, điều một nửa lực lượng của cụm quân này là tập đoàn quân xe tăng số 2 của Guderian và tập đoàn quân bộ binh số 2 đánh xuống phía nam bên bờ Đông sông Dnepr kết hợp cùng cụm tập đoàn quân Nam của Đức bao vây tiêu diệt phương diện quân Tây Nam đang phòng thủ khu vực Kiev.
Ngay từ cuối tháng 7 năm 1941, trước hiểm hoạ đột phá tại phía Nam mặt trận, Bộ tổng tham mưu Xô Viết kiên quyết đề nghị bỏ Kiev, đưa toàn bộ lực lượng sang bờ Đông sông Dnepr lập tuyến phòng thủ mới, nhưng Stalin là lãnh đạo tối cao không thể chấp nhận mất thủ đô Ukraina, đã lập tức cách chức Tổng tham mưu trưởng của đại tướng Georgi Konstantinovich Zhukov vì đề nghị này và ra lệnh tử thủ và phản công giữ vững Kiev.
Trong tháng 8, các nỗ lực phản công của phương diện quân Briansk của Liên Xô đánh vào sườn trái tập đoàn quân xe tăng số 2 và tập đoàn quân số 2 của Đức đều thất bại phương diện quân này tổn thất rất lớn và còn tạo ra lỗ hổng lớn trong phòng ngự. Đến ngày 10 tháng 9, tập đoàn quân xe tăng số 2 của Guderian từ phía Bắc đánh xuống bên bờ Đông sông Dnepr, đã chiếm được Chernigov (Чернигов) và Konotop (Конотоп). Sau đó đánh đòn quyết định nhắm về phía về Lokhvitsa (Лохвица).
Trong thời gian đó, từ 12 tháng 7 tới 10 tháng 8, tại mặt trận Kiev, chiến sự giữa cụm tập đoàn quân Nam của Đức và phương diện quân Tây Nam Xô Viết đang xấu đi nghiêm trọng cho Hồng quân: các tập đoàn quân xe tăng số 1 và tập đoàn quân bộ binh số 6, số 17 phối hợp cùng quân Romania sau khi bao vây tiêu diệt khối quân Xô Viết tại Uman đã thừa thắng ào ạt tấn công như đi vào chỗ không người. Tại phía Nam Ucraina, lúc này toàn bộ lực lượng Xô viết đang dồn về bảo vệ Odessa nên không còn có lực lượng đối kháng. Từ ngày 11 tháng 8 đến 10 tháng 9, cụm tập đoàn quân Nam đã chiếm Krivoi Rog (Кривой Рог) và Nikolaiev (Николаев) rồi vượt sông Dnepr chiếm Dnepropetrovsk (Днепропетровск), Zaporozhie (Запорожье) và Kremenchuk (Кременчук).
Sau khi đột phá tại phía nam Kiev, tập đoàn quân xe tăng số 1 của Ewald von Kleist thuộc cụm tập đoàn quân Nam của Đức đã vượt sông Dnepr sang bờ Đông tại bàn đạp Kremenchuk và tiến lên phía Bắc. Ngày 15 tháng 9, tại Lokhvitsa , tập đoàn quân xe tăng này đã gặp tập đoàn quân xe tăng số 2 của Guderian từ phía Bắc đánh xuống. Các tập đoàn quân xe tăng Đức đã bao vây hoàn toàn phương diện quân Tây Nam của Liên Xô. Phương diện quân Tây Nam Xô Viết dù đã kháng cự rất quyết liệt từ ngày đầu chiến tranh và đã cầm cự có tổ chức được lâu dài giờ đây đã bỏ lỡ cơ hội rút lui, các tập đoàn quân Xô Viết số 5, 37, 26 đã rơi vào vòng vây siết chặt của quân Đức, lại bị ngăn cách bởi sông lớn Dnepr và đã bị tiêu diệt gọn. Ngoài ra, một phần tập đoàn quân Xô Viết số 38 không rút kịp, cũng bị mất. Tập đoàn quân 21 của Xô viết đã phản công giải cứu, nhưng không đủ lực và không được phối hợp phá vây từ bên trong nên không thành. Quân Đức bắt sống khoảng 66,5 vạn quân Xô Viết trong đó có hầu hết các tư lệnh và chỉ huy các tập đoàn quân của phương diện quân này. Thượng tướng Kirponos M. P. tư lệnh phương diện quân, Trung tướng Tupikov V. I. tham mưu trưởng, cùng chính uỷ Phương diện quân, Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Ukraina, để khỏi rơi vào tay đối phương đã tự sát. Đây là một trong những chiến dịch thắng lợi vẻ vang to lớn nhất của quân Đức trong thế chiến II. Ngày 19 tháng 9 năm 1941, Kiev thất thủ. Cho đến ngày 26 tháng 9 năm 1941 những kháng cự cuối cùng trong vòng vây đã bị dập tắt, trận Kiev kết thúc.
Thảm họa Kiev của Liên Xô cho thấy rất rõ sự yếu kém rất trầm trọng trong hệ thống chỉ đạo chiến tranh của Liên Xô:
- Chỉ huy trung gian chồng chéo, chậm chạp ra quyết định: Bộ Tổng tư lệnh tối cao Xô Viết lập ra các cấp chỉ huy trung gian đó là các Bộ tư lệnh hướng chiến lược. Trong trận Kiev Phương diện quân Tây Nam vừa chịu sự chỉ huy của Bộ Tổng tư lệnh tối cao vừa chịu sự chỉ huy của Bộ tư lệnh hướng chiến lược phía Nam của Tư lệnh nguyên soái S.M. Budyonnyi (С.М Будённый) các bộ tư lệnh trung gian này có tác dụng rất ít và thường là tiêu cực, nhiều khi mệnh lệnh trái ngược và luôn mất nhiều thời gian để khẳng định mệnh lệnh chiến đấu. Chính vì nguyên nhân này Hồng quân để được phép rút lui khỏi "cái rọ" Uman đã để lỡ mất gần hai ngày và các tập đoàn quân số 6 và 12 của Hồng quân đã không đi thoát. Cũng tương tự khi có quyết định bỏ Kiev thì thực tế là quá muộn các lực lượng bảo vệ Kiev không thể thoát vây được nữa.
- Tổng tư lệnh tối cao Stalin quá độc đoán duy ý chí bất chấp các thực tế quân sự rất nguy hiểm và các đề nghị rút lui của Bộ tổng tham mưu (21 tháng 7, 1941), của Bộ tư lệnh hướng Nam (giữa tháng 8) và của Bộ tư lệnh phương diện quân và bộ tư lệnh hướng chiến trường (khoảng 10 tháng 9, 1941). Tổng tư lệnh tối cao chỉ kiên quyết một mệnh lệnh không lùi một bước. Các mệnh lệnh luôn kết tội rút lui là hèn nhát và phản bội nên các cấp chỉ huy không dám đòi hỏi được rút lui, ở thời điểm đó người đề nghị rút lui phải có bản lĩnh cao. Đặc biệt trung tuần tháng 9, 1941 lãnh tụ tương lai của Liên Xô Nikita Sergeevich Khrushchov (Никита Сергеевич Хрущёв) khi đó là thành viên hội đồng quân sự Bộ tư lệnh hướng chiến lược phía Nam (chính ủy của tư lệnh Budyonnyi) trước nguy cơ nhãn tiền bị hai gọng kìm xe tăng của Kleist và Guderian hợp vây đã thể hiện bản lĩnh lãnh đạo. Bất chấp mệnh lệnh của Tổng tư lệnh tối cao Stalin, Khrushchov tự nhận lãnh trách nhiệm cá nhân ra lệnh cho phương diện quân Tây Nam bỏ Kiev kịp thời rút ra khỏi cãi bẫy sắp đậy chặt. Tuy nhiên thượng tướng tư lệnh phương diện quân M.P. Kirponoc không thi hành lệnh này và xin xác nhận mệnh lệnh của Tổng tư lệnh tối cao. Sau hai ngày mới có mệnh lệnh của Stalin "cho phép rút quân sang bờ Đông sông Dnepr nhưng phải tiếp tục cố thủ Kiev". Mệnh lệnh này vừa quá chậm chạp vừa vô nghĩa vì khi đó tập đoàn quân xe tăng của Guderian đã bao bọc lưng của phương diện quân cách Kiev khá xa về phía Đông, nếu tiếp tục cố thủ Kiev thì đồng nghĩa với việc Hồng quân phải bất động bất kể khả năng bị quân Đức bao vây.
[sửa] Kết quả
- Trận Kiev là trận thắng lớn nhất của Đức trong chiến tranh Xô-Đức, trong trận đánh bao vây tiêu diệt lớn nhất trong lịch sử quân sự thế giới, quân Đức đã tiêu diệt 1/3 lực lượng vũ trang Liên Xô trên chiến trường Xô – Đức. Theo đánh giá của phía Đức ngoài số bị tiêu diệt, bị thương, quân Đức bắt sống 66,5 vạn binh lính và sỹ quan đối phương. Theo số liệu của Bộ Tổng tham mưu quân đội Liên Bang Nga công bố năm 1993, trong trận Kiev quân đội Xô Viết tổn thất hơn 1 triệu quân trong đó tổn thất không thể hồi phục (chết, bị bắt, mất tích, bị thương nặng tàn tật không thể tiếp tục chiến đấu) là 70 vạn quân, trong đó chết mất tích và bị bắt là 62,7 vạn quân.
- Với kết quả thất bại vô cùng to lớn tại Kiev, những vùng kinh tế quan trọng nhất của Liên Xô tại Ukraina và nước Nga bên bờ phải và bờ trái con sông Dnepr đã rơi vào tay quân Đức.
- Thất bại tại Kiev làm cho tình hình quân sự của Liên Xô vốn đã xấu lại xấu đi nghiêm trọng. Sau trận Kiev cụm tập đoàn quân Trung tâm của Đức không còn bị mối đe dọa bị phản công vào sườn phía nam từ khối quân đối phương rất mạnh là phương diện quân Tây Nam. Quân Đức đã hội đủ điều kiện tập trung binh lực tấn công thủ đô Moskva của Liên Xô.
- Mặt khác cuộc chiến kéo dài gần ba tháng tại Ukraina rõ ràng đã làm rối kế hoạch Barbarossa của Bộ chỉ huy tối cao Đức. Chiến sự tại đây đã thu hút một phần rất lớn binh lực của Đức trong một thời gian dài cho phép Liên Xô kéo dài thời gian để huy động những lực lượng dự bị cho chiến tranh lâu dài.
Sau này có nhiều ý kiến cho rằng, quyết định của Adolf Hitler phái một nửa lực lượng của cụm tập đoàn quân Trung tâm xuống phía Nam tiêu diệt Kiev đã bỏ lỡ cơ hội đánh chiếm Moskva trước mùa đông. Tuy nhiên, theo nguyên soái G.K Zhukov của Liên Xô thì quyết định này là đúng đắn cho quân Đức và sẽ phải xảy ra theo đúng quy luật quân sự và tình thế chiến trường khi đó. Và vì nhận thức được khả năng này Bộ tổng tham mưu Xô Viết đã đề nghị Stalin sớm bỏ Kiev rút sang sông Dnepr phòng ngự, vì đề nghị này G. K. Zhukov đã bị cách chức Tổng tham mưu trưởng quân đội Xô Viết.
Nhưng thất bại to lớn của quân đội Xô Viết tại Kiev còn có một khía cạnh khác, nó tác động lên tâm lý của lãnh tụ hai bên làm ảnh hưởng đến kết cục chiến tranh sau này: Tổng chỉ huy tối cao của Liên Xô Stalin sau các thất bại tại Belorussia và Kiev đã nhận thức được hạn chế về kiến thức quân sự của cá nhân mình và đã biết chú ý lắng nghe ý kiến của Bộ tổng tham mưu và các tướng lĩnh Xô Viết. Trong khi đó Hitler đã quá tự tin vào thiên tài quân sự và khả năng không thể sai lầm của mình nên càng ngày càng bỏ qua các ý kiến của các tướng lĩnh Đức, điều này đã ảnh hưởng đến quá trình điều hành chiến tranh của hai bên.
[sửa] Chú thích
- ▲ Tây Ukraina: Vùng đất cũ của Đế quốc Nga có đông đảo cộng đồng người Ukraina sinh sống. Sau chiến tranh thế giới thứ nhất thuộc về Ba Lan. Sau khi Đức tấn công Ba Lan mở đầu thế chiến hai, theo hiệp ước Molotov-Ribentrop năm 1939, quân đội Xô Viết kéo vào Ba Lan chiếm lấy vùng này sát nhập vào Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Ukraina
- ▲ Biên giới cũ: biên giới quốc gia của Liên Xô trước khi có các cuộc sát nhập lãnh thổ theo tinh thần hiệp ước Molotov-Ribentrop
- ▲ Thiếu tướng Liên Xô đã tỏ rõ năng lực trong phòng thủ Kiev và sau này trong phòng thủ Moskva. Sau đó được thăng cấp lên trung tướng và được giao chỉ huy tập đoàn quân xung kích số 2 của Liên Xô tại mặt trận Leningrad. Khi tập đoàn quân này rơi vào vòng vây, tư lệnh Vlasov bị bắt đã hợp tác với quân Đức và thành lập Quân đội Giải phóng Nga. Sau chiến tranh bị tòa án quân sự Liên Xô xử tử.
- ▲ Thiếu tướng tư lệnh tập đoàn quân số 5 của Liên Xô, đã chỉ huy xuất sắc phòng thủ Kiev. Trong trận Kiev tập đoàn quân này chịu chung số phận với Phương diện quân Tây Nam bị bao vây và tiêu diệt. M. I. Potapov bị bắt làm tù binh. Đây có lẽ là trường hợp duy nhất: ngay khi chiến tranh kết thúc Stalin còn cầm quyền đã đày ải và trừng trị những người rơi vào tay đối phương nhất là sỹ quan thì M. I. Potapov được tôn vinh và được giao nhiệm vụ chỉ huy các đơn vị quân đội.
[sửa] Tham khảo
- Các tư liệu và hình ảnh tại trang web của thông tấn xã RIA Novosti
- Kho tư liệu ảnh chiến tranh của phía Xô Viết.
- Các bài về chiến tranh Xô – Đức trên Wikipedia.
- Từ điển bách khoa "Chiến tranh giữ nước vĩ đại 1941-1945" – Nhà xuất bản Bách khoa toàn thư Xô Viết 1985 – tiếng Nga Энциклопедия: "Великая Отечественная Война 1941-1945" – Изд. Советская Энциклопедия 1985.
- "Bộ tổng tham mưu Xô Viết trong chiến tranh" – Bản tiếng Việt của Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân – Hà Nội và Воениздат – Moskva
- Các hồi ký chiến tranh của tướng lĩnh Xô Viết trên Dự án hồi ký