Đế quốc La Mã
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Đế quốc La Mã đạt đến tột đỉnh vinh quang của nó dưới thời hoàng đế Trajan, c. 117. |
||
Cơ quan quyền lực tối cao: Senatus Populusque Romanus Viện Nguyên Lão và nhân dân La Mã |
||
Quốc vật | Aquila | |
Quốc ngữ | La tinh, Hy Lạp phổ thông | |
Thủ đô | Roma; sau có thêm Constantinople (thuộc đế quốc Đông La Mã) | |
Chế độ | Chuyên chế dưới dạng một Nền cộng hòa, sau chuyển hoàn toàn thành Quân chủ chuyên chế | |
Lãnh tụ tối cao | Hoàng đế La Mã và 2 Quan chấp chính; sau khi phân chia thì có một Hoàng đế La Mã phương Tây và một Hoàng đế La Mã phương Đông | |
Đứng đầu chính quyền | Thông thường, sẽ có hai Quan chấp chính cùng đứng đầu. Một trong hai người sẽ trở thành Hoàng đế. | |
Nghị viện | Viện nguyên lão | |
Lãnh thổ - Tổng cộng - % Mặt nước |
Rộng nhất ước tính được 2.3 triệu dặm vuông (5 900 000 km²) ?% |
|
Dân số | khoảng chừng 55 tới 120 triệu | |
Thành lập | 2 Tháng 9 năm 31 TCN | |
Bị tiêu diệt | Sau sự phân chia; Đế quốc Tây La Mã bị xóa sổ vào 4 Tháng 9,năm 476, và Đế quốc Đông La Mã (hay đế quốc Byzantine), bị tiêu diệt vào 29 Tháng 5, năm 1453. | |
Hoàng đế đầu tiên | Augustus (27 TCN-14 SCN) | |
Hoàng đế cuối cùng | Theodosius I (379-395) Người cai trị cuối cùng của một Đế chế hoàn chỉnh. Hoàng đế cuối cùng của phương Tây: Romulus Augustus (475-476) hay Julius Nepos. Hoàng đế cuối cùng của phương Đông: Constantine XI (1449-1453). | |
Tiền chế độ | Cộng hòa La Mã | |
Hậu chế độ | Đế quốc La Mã về sau phân chia thành Đế quốc Tây La Mã, vàĐế quốc Đông La Mã (hay Đế quốc Byzantine). | |
Tiền tệ | Solidus, Aureus, Denarius, Sestertius, As | |
Xem thêm | ||
Đế quốc La Mã (Imperium Romanum), hay còn gọi là Đế quốc Rôma, là một đế quốc rộng lớn tồn tại từ khoảng thế kỷ thứ 6 TCN cho đến khoảng thế kỷ thứ 5 hay thế kỷ thứ 6, gồm phần đất những nước vây quanh Địa Trung Hải ngày nay. Đế quốc này trực tiếp kế thừa Đế quốc Hy Lạp do Alexandre Đại Đế gây dựng nên. Tuy mang lớp vỏ Rôma nhưng thực chất bên trong vẫn là nền Văn minh Hy Lạp.
Mục lục |
[sửa] Ngôn ngữ
Ngôn ngữ chung của cả đế quốc là tiếng Hy Lạp phổ thông (koine). Tuy nhiên ở phía tây đế quốc (Ý, Tây Ban Nha ...) người ta vẫn nói tiếng La Tinh. Tại Palestine, tiếng Arama được dùng trong sinh hoạt hằng ngày, còn tiếng Híp-ri chỉ là cổ ngữ.
[sửa] Hành chính
Chia thành nhiều tỉnh. Có tỉnh thì hoàn toàn bình định, dưới quyền viên thống đốc (proconsul), gọi là "tỉnh thuộc nghị viện". Có tỉnh chưa ổn định, dưới quyền vị khâm sai do hoàng đế bổ nhiệm, gọi là "tỉnh thuộc hoàng đế". Ngoài ra còn có các vùng ngoại lệ. Ai Cập là tư hữu của hoàng đế nên trực thuộc vị này.
[sửa] Giao thông
Địa Trung Hải tấp nập thuyền bè đi lại, đặc biệt trong khoảng tháng 3 đến tháng 11 là thời gian có gió thuận lợi. Ngoài ra còn có hệ thống đường xá hoàn chỉnh trong khắp đế quốc, nhờ đó việc chuyển quân và chuyển thư dễ dàng, nhanh chóng.
[sửa] Luật pháp
Về pháp lý có ba hạng người:
- Người có quyền công dân La Mã: rất có lợi thế, được hưởng một số đặc ân về pháp lý. Quyền công dân La Mã là do thừa kế bởi cha mẹ hoặc mua bằng số tiền lớn hoặc do hoàng đế thưởng công.
- Công dân thường: phải theo luật địa phương, ngoại trừ những gì liên quan đến thuế và hình sự.
- Nô lệ: chiếm khá đông, số phận không giống nhau, tùy phong tục từng vùng, tùy công việc họ làm và tính khí của chủ. Nô lệ ở vùng quê thì rất cực khổ, còn ở thành phố thì được ưu đãi hơn. Họ có thể được trả tự do hoặc chuộc lại sự tự do khi trả một món tiền cho chủ.
Bộ Luật La Mã có nhiều quy định về pháp luật ảnh hưởng đến ngày nay như:
- Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.
- Không người nào là không biết luật pháp.
[sửa] Thuế khóa
Người dân trong đế quốc phải nộp thuế nhà đất, thuế lợi tức, nếu là công dân thường thì phải nộp thêm thuế thân, trừ người già và trẻ nhỏ. Ngoài ra dân thường phải nộp một số thuế gián thu khác. Riêng người Do Thái còn nộp thuế đền thờ (bằng hai ngày lương) và thuế thập phân.
[sửa] Dân cư
Thời đầu Công Nguyên khoảng 50 triệu người. Quân đội ít nhưng tinh nhuệ. Có ba thành phố lớn: La Mã là trung tâm đầu não của đế quốc, dân số khoảng 1 triệu, nhiều người thuộc giới lãnh đạo. Alexandria ở Ai Cập, phía nam Địa Trung hải, là trung tâm văn hóa, có thư viện nổi tiếng thời đó, kiều dân Do Thái chiếm 1/3 số dân ở đây. Antiokhia (Antioch), từng là thủ đô xứ Syria cổ (nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ), nơi Kitô giáo phát triển rất sớm.
[sửa] Tôn giáo
Trước khi có Kitô giáo thì người ta coi hoàng đế là bậc thần linh. Có những hoàng đế chỉ khuyến khích dân chúng thờ các hoàng đế đã băng hà, nhưng cũng có hoàng đế chấp nhận cho dân thờ mình. Ngoài ra, người dân còn thờ các thần linh khác. Tuy nhiên, tôn giáo chỉ giới hạn ở việc tế tự. Người ta dâng sản phẩm của đất đai hay sát tế thú vật, một phần con vật thì dâng trên bàn thờ, phần còn lại chia cho các tư tế và tín đồ đem bán ngoài chợ do đó nảy sinh ra vấn đề là có được phép mua thịt này để ăn hay không? Đời sống tôn giáo thấm nhập vào các đô thị, mỗi thành phố đều có vị thần bảo trợ (thần Athena của thành Anthena, thần Artemis của thành Ephesus...). Ngoài ra còn có các tôn giáo bí truyền.