Máy bay tiêm kích
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
|
Máy bay tiêm kích là một loại máy bay chiến đấu trong binh chủng không quân tiêm kích để tác chiến chống lại các lực lượng không quân của đối phương. Nhiệm vụ chính của không quân tiêm kích là không chiến:
- chiến đấu tiêu diệt các máy bay ném bom, máy bay tấn công và tên lửa của đối phương để bảo vệ an toàn các mục tiêu mặt đất và trên biển của lực lượng mình khỏi các đòn đánh của không quân đối phương.
- chiến đấu chống lại các máy bay tiêm kích của đối phương để bảo vệ các máy bay ném bom và máy bay tấn công, máy bay vận tải và các lực lượng không quân khác của quân mình đang hoạt động.
- Góp phần cùng các lực lượng không quân khác triển khai trên diện rộng các biện pháp đấu tranh với các lực lượng phòng không và không quân của đối phương để tranh đoạt quyền bá chủ trên không, kiểm soát vùng trời đảm bảo an ninh trên không cho các quân binh chủng quân mình chiến đấu trong khu vực.
Vì các đặc điểm chiến đấu không chiến nên máy bay tiêm kích khác với những loại máy bay quân sự khác như máy bay ném bom, máy bay tấn công, máy bay thám thính, máy bay vận tải là máy bay tiêm kích có kích thước nhỏ hơn; có tốc độ rất cao; độ cơ động rất tốt: dễ dàng đột ngột thay đổi các tham số bay (vận tốc, độ cao, hướng bay); dễ thao tác và được trang bị các vũ khí không chiến đặc dụng là radar, hệ thống thông tin – chỉ huy – dẫn đường, súng máy, pháo và tên lửa có điều khiển không đối không để chiến đấu hiệu quả chống không quân địch.
[sửa] Lịch sử phát triển
Máy bay tiêm kích có sự phôi thai ra đời từ trong đệ nhất thế chiến, đầu tiên nó chỉ là loại máy bay chiến đấu đa năng còn chưa được chuyên môn hoá được phát minh để tăng cường cho các phương tiện bay khác, nhất là các loại khinh khí cầu quân sự nặng nề thường dùng lúc bấy giờ. Những máy bay chiến đấu thời này thường làm bằng gỗ, động cơ cánh quạt, có hai cánh đôi và trang bị súng máy trên buồng lái; sử dụng trong thám thính và tấn công các mục tiêu trên mặt đất.
Roland Garros (1888 - 1918) phi công Pháp sáng kiến đặt súng máy trước phòng lái và miếng sắt che đạn cho cánh quạt. |
Máy bay hai cánh đôi Camel của hãng Sopwith Anh Quốc. |
Đến thế chiến thứ hai đa số máy bay chiến đấu đã được làm bằng kim loại với súng đại bác gắn trên hai cánh đơn. Khi chiến tranh trên không có tầm quan trọng chiến lược, cuộc tranh chấp không phận tăng theo. Trong thời kỳ này với sự gia tăng tầm quan trọng của không chiến máy bay tiêm kích đã được chuyên môn hóa thành một binh chủng độc lập trong không quân chuyên để đấu tranh chống lại không quân đối phương được gọi là không quân tiêm kích. Trong cuộc chiến này, kỹ thuật và khoa học áp dụng trong quân sự được thúc đẩy phát triển mạnh mẽ đưa đến những phát minh như radar, hỏa tiễn và động cơ phản lực. Tuy nhiên chỉ đến khi cuộc thế chiến thứ hai gần chấm dứt, các máy bay chiến đấu tiêm kích mới thực sự được trang bị động cơ phản lực, tên lửa và radar.
Và từ sau đại chiến trong chạy đua vũ trang của thế giới là thời đại của các máy bay tiêm kích phản lực với các thế hệ tiêm kích ngày càng hiện đại hơn được trang bị các vũ khí và thiết bị hiện đại nhất để đấu tranh chống lại không quân đối phương.
[sửa] Máy bay chiến đấu với động cơ cánh quạt
[sửa] Thế chiến thứ Nhất


Những cuộc đụng chạm trên không bắt đầu từ những toán máy bay thám thính gặp nhau. Những ngày đầu, vì không có trang bị súng, phi công chỉ vẫy tay chào nhau hoặc khoa khoa tay làm động tác chửi tục. Sau đó có vài chàng thử bay gần lại và dùng thủ đoạn lấy cánh quạt mình cắt bánh lái đuôi máy bay đối phương... Rồi sau đó dùng súng ngắn bắn nhau và ném lựu đạn lẫn nhau. Nhận thấy tầm quan trọng của máy bay thám thính trên không, các đội quân sử dụng máy bay có trang bị các loại súng để tìm và tiêu diệt máy bay thám thính của địch. Đó là khởi đầu ra đời của máy bay tiêm kích. Súng của máy bay tiểm kích ban đầu có loại quay trên trục do người ngồi sau phi công bắn ra phía sau đuôi, nhưng đôi khi xui xẻo có thể bắn trúng đuôi máy bay của chính mình. Có loại nằm trên nóc cánh trên, nhưng có nhắm và nạp đạn. Loại phổ biến nhất là loại gắn phía trước buồng lái, do phi công chính tự nhắm và bắn, nhưng lại hay bắn vào cánh quạt của máy bay mình. Ông Roland Garros người Pháp sáng chế loại cánh quạt có miếng kim loại để gạt đạn ra ngoài thay vì cắm vào thân cánh quạt, nhưng cũng chưa hoàn hảo. Đến khi quân đội Đức bắt được một máy bay Pháp, toán nghiên cứu do Anthony Fokker dẫn đầu phát triển thêm phát minh của Garros và sản xuất loại máy bay chiến đấu hoàn hảo hơn (xem sơ đồ súng máy Fokker)
Những máy bay chiến đấu điển hình:
- Vickers F.B.5 - loạt máy bay đầu tiên thực sự sử dụng để chiến đấu
- Nieuport
- Rumpler Taube
- Fokker: Fokker Dr.I, Fokker D.VII
- S.P.A.D., or "Spad"
- Sopwith Camel
- RAE SE5a
- Albatros
[sửa] 1919 - 1938
Sự phát triển kỹ thuật máy bay chiến đấu chậm lại trong thời hòa bình hậu chiến. Kiểu cánh đôi từ từ được thay thế bởi loại cánh đơn, thân sườn máy bay làm bằng kim loại nhẹ thay vì gỗ hay vải. Một số thử chế máy bay hai động cơ nhưng ít thông dụng trừ khi dùng trong việc vận tải. Một số thường dân có tiền lúc bấy giờ đua nhau chế tạo, cải tiến máy bay và tổ chức các cuộc đua máy bay. Những phát minh trong giai đoạn này, như làm thân máy bay thon nhỏ, hệ thống giảm nhiệt động cơ bằng nước v.v... sau đó được sử dụng trong thế chiến thứ hai.
Chiếc Hawker Fury - không quân Nam Tư |
Những máy bay chiến đấu điển hình:
- Cánh đôi
- Bristol Bulldog
- Gloster Gladiator - hoạt động trong cuộc chiến tại Địa Trung Hải trong TCII
- Hawker Fury - bay trong Nội chiến Tây Ban Nha
- Cánh đơn
- Boeing P-26 Peashooter
- Brewster Buffalo
- Polikarpov I-16
[sửa] Thế chiến thứ Nhì
Trong thế chiến thứ hai, làm chủ trên không là một phần cơ yếu của nghệ thuật quân sự. Khả năng dùng máy bay để phát hiện, phá hoại, và bẻ gẫy quân đội trên bộ là yếu tố rường cột trong phối hợp không quân – lục quân của quân đội Đức Quốc xã. Cuộc xâm chiếm Anh Quốc sở dĩ thất bại là do không quân của Đức không chiếm được quyền khống chế bầu trời khi đụng phải Không quân Hoàng gia Anh. Theo lời của Erwin Rommel nhận thức được tầm quan trọng của không quân: "Bất cứ ai, dù với vũ khí tân kỳ nhất, phải đánh nhau khi quân địch đã hoàn toàn làm chủ tình thế trên không, sẽ chiến đấu giống như quân mọi rợ chống lại quân đội hiện đại châu Âu, với những thiệt thòi tương tự và cơ hội thành công tuơng tự."
Máy bay tiêm kích trong thế chiến II có tất cả những phát minh trong thập niên 30. Máy bay với động cơ xăng dùng piston tiếp tục được cải tiến và phát triển, càng lúc càng tiến bộ về mọi mặt cho đến khi những máy bay phản lực như Messerschmitt Me 262 và Gloster Meteor được chế tạo. Những chiếc này có tốc độ lên trên 400 dặm/giờ (600km/giờ) và khi bổ nhào xuống nhanh có thể vượt bức tường âm thanh, nhiều khi tạo cộng hưởng làm vỡ máy bay. Các loại thắng cản tốc độ đâm xuống được chế ra để tránh hiện tượng này.
Radar, phát minh trước khi cuộc chiến bùng nổ, được gắn trên một vài loại máy bay chiến đấu, như chiếc Messerschmitt Bf 110 và Northrop P-61 Black Widow, giúp phi công phát hiện máy bay địch trong đêm tối. Một sáng kiến trong thời này do Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ vùng Thái Bình Dương: vì thiếu máy bay, họ gắn thêm bom vào máy bay chiến đấu F4U Corsair. Sau khi bỏ bom, những máy bay này có thể chiến đấu chống lại máy bay địch.
Những chiến đấu cơ tiêm kích điển hình:
|
|
[sửa] Máy bay chiến đấu tiêm kích phản lực
[sửa] Thế hệ thứ nhất ( 1944 - 1953 )
Loạt máy bay thế hệ đầu tiên sử dụng động cơ phản lực đạt tốc độ nhanh hơn động cơ piston, nhưng kết cấu thân vỏ – cánh vẫn còn theo hình dạng của loại máy bay thời trước - cánh hình chữ nhật thẳng trang bị đại bác (pháo), thường không có radar (trừ vài chiếc đặc vụ bay đêm). Vào năm cuối của TCII, hãng máy bay quân sự Đức Messerschmitt sản xuất chiếcMe 262 rất nhanh và khi do phi công thành thạo lái hầu như không máy bay đương thời nào khác chống lại được. Nhưng máy bay này ít được sử dụng vì hao xăng và lúc đó Đức đang phải hạn chế nhiên liệu. Tuy nhiên đây là dấu hiệu ngày tàn của máy bay động cơ piston. Cùng năm 1944, không quân Anh sau đó cho ra chiếc Gloster Meteor. Sau cuộc chiến, hầu hết các hãng sản xuât máy bay chiến đấu đều dùng động cơ phản lực.
Tuy nhanh thật, máy bay chiến đấu phản lực thế hệ đầu tiên có nhiều khuyết điểm: độ tin cậy còn kém nhiều chiếc bị hư chỉ sau vài giờ bay, máy dễ hư hỏng, thô kệch. Trong giai đoạn này có các phát minh về kết cấu thân – cánh như cánh bắt đầu có hình dạng delta hình mũi tên, ghế cứu sinh tự phóng cho phi công nhảy dù, và các điều khiển trên phần đuôi.
Điển hình:
|
|
![]()
Me 262 A-1a khoảng 1944
|
[sửa] Thế hệ thứ Hai ( 1953 - 1960 )
Các hãng sản xuất phối hợp nhiều kỹ thuật tân tiến để gia tăng tầm hoạt động và khả năng tác chiến của máy bay chiến đấu. tên lửa tự dẫn như AIM-9 Sidewinder và AIM-7 Sparrow giúp tác chiến ngoài tầm nhìn của phi công, nhưng cần sử dụng radar kiểm soát mục tiêu. Tuy nhiên phi công tác chiến vẫn thường dùng mắt thường hơn để đánh nhau với đối phương trong các trận không chiến tầm gần mặt đối mặt. Các sáng tạo khác về dạng cánh máy bay tiếp tục phát triển; dạng cánh cụp (như chiếc F-100 là máy bay đầu tiên phá bức tường âm thanh), dạng tam giác và nhiều dạng khác. Khả năng chứa xăng cũng tăng lên nhờ những sáng tạo cấu trúc bình chứa.
Thời kỳ này với sự phát triển mạnh của vũ khí tên lửa rất hiệu quả và gọn nhẹ, hiệu quả không chiến không còn phụ thuộc quá nhiều vào các đặc tính cơ động của máy bay nên trong không quân Hoa Kỳ đã phát triển một xu hướng mới và sau này được các nước khác đi theo đó là kết hợp yếu tố của máy bay tiêm kích với yếu tố của máy bay tấn công và ra đời loại máy bay tiêm kích lưỡng dụng: máy bay tiêm kích mang bom vừa có thể tấn công mặt đất như máy bay tấn công, vừa có thể không chiến và xu hướng này đến nay vẫn là chủ đạo trong không quân tiêm kích của các cường quốc quân sự thế giới. Điển hình của xu hướng này ở thời kỳ đó là các mẫu máy bay F-105 "thần sấm" của Hoa Kỳ và Sukhoi Su-7 của Liên Xô; Sau này hầu hết các máy bay tiêm kích Hoa Kỳ loại máy bay "F" (fighter) đều có tính chất lưỡng dụng này.
Đồng thời với sự ra đời của tên lửa mang đầu đạn hạt nhân phóng từ máy bay và bom hạt nhân xuất hiện yêu cầu phải có loại tiêm kích chuyên biệt đánh chặn từ xa không cho phép xuất hiện vũ khí hạt nhân tại khu vực được bảo vệ. Đó là xu hướng phát triển máy bay tiêm kích đánh chặn từ xa mà đi đầu trong hướng này là không quân Xô viết: máy bay tiêm kích đánh chặn (tiếng Anh: Fighter-interceptor, tiếng Nga: Истребитель – перехватчик là loại máy bay tiêm kích tầm xa mang tên lửa không đối không tầm xa để tiêu diệt các máy bay và tên lửa của đối phương từ rất xa ngoài khu vực bảo vệ. Các máy bay này trang bị các hệ thống radar và tên lửa rất hiện đại có tầm bay rất xa và tốc độ rất cao nhưng vì đánh nhau bằng phóng tên lửa tầm xa nên không đòi hỏi tính cơ động tốt. Ở thời kỳ này các máy bay điển hình loại này là MIG-21 của Liên Xô, English Electric Lightning và F-104 Starfighter (Hoa Kỳ).
Các chiếc điển hình:
|
[sửa] Thế hệ thứ Ba ( 1960 - 1970 )
Trong các năm 1960-1970 có sự định hướng lại trong xây dựng không quân tiêm kích. Điều đó thể hiện sự nhận thức lại vai trò của chiến tranh không quân: Trước đây các cường quốc về Không quân ưu tiên số một cho các nhiệm vụ của chiến tranh thế giới huỷ diệt tổng lực có sử dụng vũ khí huỷ diệt hàng loạt để các cường quốc quân sự tiêu diệt lẫn nhau. Còn đến giai đoạn này các cường quốc hiểu rằng gần như sẽ không có chiến tranh huỷ diệt tổng lực như vậy mà chiến tranh không quân sẽ là các cuộc chiến tranh phi hạt nhân với chiến trường khu vực loại máy bay tiêm kích mặt trận sẽ thắng thế. Và các cuộc chiến tranh khu vực trong thời kỳ này là các tham chiếu cho các nước xây dựng lực lượng không quân đó là chiến tranh không quân của Không lực Hoa Kỳ chống miền Bắc Việt Nam (1964-1973) trong chiến tranh Việt Nam, chiến tranh Trung Đông năm 1967 và 1973 và chiến tranh Ấn Độ- Pakistan năm 1971.
Đến thế hệ thứ ba thì các phát minh sáng kiến của các thế hệ trước được hoàn chỉnh cải tiến nhiều như hoả tiễn, radar và khả năng tác chiến. Một mặt các máy bay tiêm kích đánh chặn vẫn được một số nước như Liên Xô ưu tiên phát triển như loại MIG-23, MIG-25 với tính đánh chặn chuyên biệt rất cao nhưng về cơ bản xu hướng của thế giới nghiêng nhiều về ưu tiên cho xu hướng đa năng và các đặc điểm không chiến đánh gần: đặc điểm quan trọng của thời điểm này là các cuộc không chiến thường dưới dạng giáp lá cà mặt đối mặt, máy bay rượt đuổi nhau rất sát như tại chiến tranh Việt nam và chiến tranh Ấn-Hồi 1971. Vì vậy mà pháo gắn trên máy bay lại được chú ý đến đồng thời với tên lửa, và khả năng xoay xở nhanh nhẹn (độ cơ động cao) trên không của máy bay lại trở nên cực kỳ cần thiết.
Xu hướng chính được củng cố là đa năng hoá: một số máy bay trở thành đa năng, có thể dùng trong nhiều chiến dịch khác nnhau. Máy bay của các thế hệ trước được chế tạo ra để đáp ứng với một mục đích nhu cầu đặc biệt, như đánh đêm, đánh chặn, tấn công mục tiêu trên đất, trên biển, v.v... Máy bay thế hệ thứ ba được phát triển để có thể cáng đáng hầu hết các nhiệm vụ này. Chiếc F-4 Phantom II của hãng McDonnell tuy là loại thiết kế để đánh chặn nhưng có khả năng mang nhiều bom hơn chiếc B-24 (máy bay ném bom thời thế chiến II). Chiếc này rất phổ biến và đợc công nhận rộng rãi là máy bay tiên tiến nhất đương thời và là máy bay được cả ba lực lượng quân đội Hoa Kỳ (Thuỷ quân lục chiến, Hải quân và Không quân) sử dụng cùng lúc.
Máy bay chiến đấu thế hệ thứ 3:
|
|
[sửa] Thế hệ thứ Tư ( 1970 - 1990 )
Thế hệ thứ tư tiếp tục phát huy khái niệm máy bay đa dụng của thế hệ thứ ba. Chiếc MiG-23 và Panavia Tornado đươc cải tiến, sản xuất dưới nhiều dạng khác nhau để dùng vào nhiều mục đích chiến thuật khác nhau. Máy bay F/A-18 Hornet và Dassault Mirage 2000 được gọi là "máy bay chiến tranh đa năng" - với khả năng dễ dàng thay đổi giữa các chức năng chiến đấu.
Máy bay thế hệ thứ tư có khả năng cận chiến cao hơn trước. Và tiêu chuẩn cơ bản của thế hệ này là hệ thống điều khiển trong buồng lái phần lớn dùng hệ thống điện – điện tử và máy tính fly-by-wire loại bỏ hệ thống điều khiển cơ – thuỷ lực đã lỗi thời, với các tính toán tham số bay tự động, do đó phi công có thể chú tâm vào việc tác chiến hơn là lo điều khiển máy bay. Chiến đấu cơ điển hình của thế hệ thứ tư:
|
|
Hình:Canada CF-18 (9).jpg
Canada CF-18 Hornet
|
[sửa] Thế hệ "4.5" ( 1990 - 2000 )
Thế hệ "nửa chừng" này là thế hệ chiến đấu cơ hiện nay - để biểu hiện sự trì trệ của phát triển kỹ thuật máy bay. Điển hình là chiếc F/A-18E/F Super Hornet; đây chỉ là một tái bản của chiếc Hornet đời 1970, chỉ thêm vào các máy tính và mớ dây dợ điện tử, kính che phòng lái hoàn toàn bằng thủy tinh đặc biệt (không có sườn sắt), radar cao cấp, máy mạnh hơn, kim loại hỗn hợp nhẹ hơn, và hình dáng thay đổi chút ít để tránh radar. Trong số này, chỉ có hai chiếc Super Hornet và Strike Eagle là có tham chiến.
|
|
[sửa] Thế hệ thứ Năm
Là thế hệ các máy bay hiện đại nhất đang được thử nghiệm hiện nay và tương lai gần và phải tổng hợp được các tính năng rất ưu việt sau đây:
- Hệ thống phễu phụt phản lực đa hướng cho phép máy bay có lực nâng phản lực với độ cơ động cực cao. Hiện nay đang có các mẫu máy bay F/A-22 Raptor của Hoa Kỳ, SU-27 và các đời SU cuối cùng của Nga, Eurofighter của Châu Âu đáp ứng được yêu cầu này trong đó dòng SU đáp ứng ưu việt nhất.
- Tốc độ hành trình cơ bản là siêu âm không cần tăng lực hiện nay F/A-22 Raptor của Hoa Kỳ đáp ứng tốt nhất yêu cầu này.
- Công nghệ tàng hình chống ra đa và giảm thiểu đến mức tối đa các trường vật lý của máy bay cho phép máy bay là vô hình đối với đối phương. Hiện nay chỉ có vài mẫu đáp ứng được mà đầu bảng là F-117 của Hoa Kỳ.
- Hệ thống điều khiển hoàn toàn tự động với tương tác thông tin tương tác đầu ra đầu vào trực tiếp trên kính phi công tự động tổng hợp các thông tin chiến đấu, có khả năng bỏ qua các hành động sai sót của phi công khi thao tác bay.
- Tính đa năng của máy bay cho phép thực hiện được nhiều chức năng chiến đấu.
- Hệ thống radar hoả lực vòng tròn mạnh ở mọi phía có thể cảnh giới, nhìn và bắn về phía sau cũng hiệu quả như về phía trước và tiến đến có thể tác chiến vòng tròn.
Ngoài ra máy bay tiêm kích thế hệ này còn bao gồm các tính năng khác như phòng lái bằng thủy tinh toàn phần, vật liệu kim loại hỗn hợp. Hệ thống tác chiến không người lái: một khái niệm tân kỳ đang được nghiên cứu, có lẽ sẽ bắt đầu cho thế hệ thứ Sáu của máy bay chiến đấu.
|
[sửa] Xem thêm

- Máy bay quân sự
- Máy bay ném bom
- Máy bay tấn công
- Máy bay thám thính