Phạm Quỳnh
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
- Đây là bài viết về nhà văn hóa đầu thế kỷ 20 . Để đọc bài viết về đại thần nhà Mạc , xin xem bài Phạm Quỳnh (nhà Mạc).
Phạm Quỳnh (17 tháng 12 năm 1892-6 tháng 9 (?) năm 1945) là một nhà văn hóa, nhà báo, đại thần triều Nguyễn (Việt Nam). Ông là người đi tiên phong trong việc quảng bá chữ quốc ngữ và dùng tiếng Việt - thay vì chữ nho hay tiếng Pháp - để viết lý luận, nghiên cứu. Ông có tên hiệu là Thượng Chi, bút danh: Hoa Đường, Hồng Nhân.
Mục lục |
[sửa] Tiểu sử
Ông quê ở làng Lương Ngọc (nay thuộc xã Thúc Kháng), phủ (nay là huyện) Bình Giang, tỉnh Hải Dương, nhưng sinh ở Hà Nội. Mồ côi mẹ từ 9 tháng tuổi, mồ côi cha từ khi lên 9 tuổi. Sau khi đỗ đầu bằng Thành chung (tốt nghiệp) Trường trung học Bảo hộ (tức trường Bưởi, còn gọi là trường Thông ngôn) năm 1908, Phạm Quỳnh làm việc ở Trường Viễn Đông Bác cổ tại Hà Nội.
Ông làm chủ bút Nam Phong tạp chí từ năm 1917 đến năm 1932, tuyên truyền cho tư tưởng "Pháp Việt đề huề". Cũng trong thời kỳ 1924-1932, ông còn là giảng viên Trường Cao đẳng Hà Nội.
Ông còn là Tổng Thư ký Hội Khai trí Tiến đức mà ông tham gia sáng lập và Hội trưởng Hội trí tri Bắc Kỳ. Năm 1922, ông đã sang Pháp dự Hội chợ triển lãm Marseille rồi diễn thuyết ở cả Ban Chính trị và Ban Luân lý Viện Hàn lâm Pháp.
Cuối năm 1932, ông vào Huế tham gia chính quyền Bảo Đại, thời gian đầu làm Ngự tiền Văn phòng, sau đó làm Thượng thư Bộ Quốc gia Giáo dục và cuối cùng giữ chức vụ Thượng thư Bộ Lại (1944-1945).
Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp. Chính phủ Trần Trọng Kim được thành lập. Ông về sống ẩn dật ở biệt thự Hoa Đường bên bờ sông đào Phủ Cam.
Ông bị du kích Việt Minh bắt giam ngày 23 tháng 8 năm 1945 và bị giết sau đó cùng với hai cha con Ngô Đình Khôi, anh ruột Ngô Đình Diệm. Theo Xuân Ba (báo Tiền phong) thì ngày mất là ngày 6 tháng 9 năm 1945.
Ông có 16 người con (3 người mất từ nhỏ), trong đó cố Giáo sư Phạm Khuê, nguyên Viện trưởng Viện Lão khoa, nguyên Chủ tịch Hội người cao tuổi Việt Nam là người con thứ 7 và nhạc sĩ Phạm Tuyên là người con thứ 9.
Di hài ông được tìm thấy năm 1956 trong khu rừng Hắc Thú, và được cải táng ngày 9 tháng 2 năm 1956 tại Huế, trong khuôn viên chùa Vạn Phước.
[sửa] Đánh giá
Phạm Quỳnh được coi là người đi tiên phong trong việc dùng tiếng Việt để viết lý luận. Dương Quảng Hàm đánh giá các công trình của ông là đã "luyện cho tiếng ta có thể diễn dịch được các lý thuyết, các ý tưởng về triết học, khoa học mới."[1]
Trước đây, cũng có nhiều người cho rằng ông gắn bó với các chủ trương chính trị của thực dân Pháp. Ông bị coi là "ru ngủ" thanh niên trí thức trong cái "hồn nước" mơ hồ, khiến họ đi chệch khỏi chí hướng làm cách mạng chống Pháp. Thậm chí trong một thời gian dài sách báo, kể cả sách giáo khoa, dưới chế độ cộng sản ở Việt Nam còn gọi ông là tay sai đắc lực của Pháp. Tuy nhiên gần đây bắt đầu có sự đánh giá lại, khách quan và công bằng hơn. Từ điển văn học bộ mới (2004) coi ông là người có tinh thần dân tộc, ôm ấp một chủ nghĩa quốc gia theo xu hướng ôn hòa, lấy việc canh tân văn hóa để làm sống lại hồn nước.
[sửa] Tác phẩm
Ông là tác giả và dịch giả nhiều bài viết và sách văn học, triết học và tùy bút. Gần như toàn bộ các tác phẩm của ông đều đăng trên tạp chí Nam Phong. Nhiều bài sau đó in lại thành sách do Đông Kinh ấn quán ở Hà Nội xuất bản.
Các tác phẩm của ông có thể chia làm ba loại:
[sửa] Loại dịch thuật
Ông dịch các đoạn văn và tác phẩm từ tiếng Pháp, chủ yếu thiên về triết học, như triết học của Descartes. Tuy nhiên, ông cũng có dịch một số tác phẩm nghệ thuật như kịch của Corneille.
[sửa] Loại du ký
Ông viết nhiều du ký ghi lại những điều quan sát, nhận định, nghị luận trong các chuyến du lịch đi Pháp và đi các vùng đất Việt Nam như bài Mười ngày ở Huế và loạt bài Một tháng ở Nam Kỳ.
[sửa] Loại khảo cứu
Phần quan trọng nhất trong các tác phẩm của Phạm Quỳnh là các tác phẩm khảo cứu. Ông nghiên cứu trong các sách chữ nho, sách tiếng Pháp, và viết lại những bài chuyên khảo bằng tiếng Việt. Có ba ngành ông chú trọng, là:
- Các học thuyết Âu Tây, như trong Văn minh luận, Khảo về chính trị nước Pháp, Lịch sử và học thuyết của Rousseau, Lịch sử và học thuyết của Montesquieu, Lịch sử và học thuyết của Voltaire, v.v.
- Học thuật Á Đông, những bài về triết học và tôn giáo Á Đông như Phật giáo lược khảo, Cái quan niệm người quân tử trong triết học đạo Khổng, v.v.
- Văn hóa Việt Nam, với chủ đề trải rộng từ Tục ngữ ca dao, tới Việt Nam thi ca, tới Văn chương trong lối hát ả đào.
Nhiều tác phẩm của ông liên kết những học thuật Âu Tây và phân tích, so sánh chúng với các khái niệm quen thuộc của người Việt Nam. Như trong bài Cái quan niệm người quân tử trong triết học đạo Khổng ông có phần phân tích và so sánh giữa quan niệm người quân tử của đạo Khổng và người "chính nhân" (là chữ ông dùng cho l'honnête homme) trong văn hóa Pháp. Hay như ông có những bài Văn hóa Pháp đối với tiền đồ nước Nam hoặc Công cuộc chấn chỉnh quốc gia ở nước Pháp và khôi phục cổ điển ở nước Nam.
[sửa] Một số tác phẩm chính
- Văn minh luận
- Ba tháng ở Paris
- Văn học nước Pháp
- Chính trị nước Pháp
- Khảo về tiểu thuyết
- Lịch sử thế giới
- Lịch sử và học thuyết Voltaire
- Phật giáo đại quan
- Cái quan niệm của người quân tử trong Đạo Khổng
- Thượng Chi Văn tập gồm 5 quyển, Nhà xuất bản Alexandre de Rhodes Hanoi ấn hành năm 1943.
[sửa] Câu nói nổi tiếng
Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn.
[sửa] Tham khảo
- Phạm Thị Hoàn (biên tập) (1992). Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Phạm Quỳnh (1892~1992), tuyển tập và di cảo, An Tiêm (Paris).