Nhà Nguyễn
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Loạt bài Lịch sử Việt Nam |
![]() |
|||||||||||||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
|
Nhà Nguyễn là triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi vua Gia Long lên ngôi năm 1802 sau khi đánh bại nhà Tây Sơn và chấm dứt khi vua Bảo Đại thoái vị vào năm 1945 – tổng cộng là 143 năm.
Mục lục |
[sửa] Lịch sử hình thành
Người khởi đầu cho sự nghiệp của nhà Nguyễn là Nguyễn Kim (1468-1545). Khi nhà Hậu Lê bị nhà Mạc cướp ngôi vào năm 1527, Nguyễn Kim chạy vào Thanh Hóa để chống lại nhà Mạc. Sau đó Nguyễn Kim còn kiếm được một người con của vua Lê cũ để nối tiếp nhà Lê, đây là Lê Trang Tông. Nhờ công này, Nguyễn Kim được vua phong chức Quốc công, trông coi tất cả quân đội. Nguyễn Kim sau bị người nhà Mạc dùng thuốc độc giết. Nguyễn Kim có hai người con trai là: Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng, cả hai đều được phong chức Quận công, nhưng binh quyền lọt vào tay người anh rể là Trịnh Kiểm. Trịnh Kiểm nắm quyền chỉ huy quân đội, trông coi tất cả mọi việc trong triều đình. Để giảm bớt quyền lực của họ Nguyễn, Trịnh Kiểm giết Nguyễn Uông. Lo sợ cho chính mình, Nguyễn Hoàng xin vào trấn đất Thuận Hóa, tức là miền nam của Việt Nam lúc đó (phần đất thuộc các tỉnh từ Quảng Bình đến Quảng Nam bây giờ), vào năm 1558 để tránh xa Chúa Trịnh. Từ đó Nguyễn Hoàng lập nên căn cứ của mình tại phương nam, mở rộng ranh giới bằng cách xâm chiếm Chiêm Thành, Lào, Chân Lạp, gây sức ép với các vua của Đế quốc Khmer để họ nhường đất của xứ Phù Nam cũ (tức là miền Nam Việt Nam bây giờ). Tuy nhiên, các chúa Nguyễn lúc đó về hình thức vẫn thần phục vua Lê và cũng chỉ xưng "Chúa" (Chúa Nguyễn), với Nguyễn Hoàng là người đầu tiên xưng là Chúa Tiên, và đặt tên cho vùng đất cai trị của mình là Đàng Trong.
Con của Nguyễn Hoàng là Nguyễn Phúc Nguyên, hay Chúa Sãi, lên ngôi chúa năm 1613, là người đầu tiên mang họ Nguyễn Phúc. Từ đó con cháu trong giòng họ này đều mang họ này.
Sáu đời sau Nguyễn Phúc Khoát, lên ngôi vào năm 1738, là người đầu tiên xưng "vương" vì Chúa Trịnh tại phương bắc cũng đã xưng vương – vua Lê chỉ còn hư vị. Nguyễn Phúc Khoát xưng mình là Võ Vương.
Sau khi Vũ Vương chết, theo di chúc người nối ngôi phải là Nguyễn Phúc Luân nhưng một vị quan trong triều là Trương Phúc Loan lập Nguyễn Phúc Thuần, mới 12 tuổi, lên ngôi để nắm quyền. Nguyễn Phúc Thuần lên ngôi năm 1765, xưng là Định Vương.
Trương Phúc Loan là một người độc ác, tàn bạo nên dân chúng nổi lên khởi nghĩa, trong số đó là anh em nhà Tây Sơn. Nhà Tây Sơn được lòng dân nên thế lực rất mạnh. Họ đánh bại quân nhà Nguyễn, bắt giết Định Vương và rất nhiều người trong họ Nguyễn Phúc. (Một người cháu, gọi Định Vương là chú, tên Nguyễn Phúc Dương lên nối ngôi nhưng cũng phải đầu hàng sau một năm.) Nhà Tây Sơn cũng đánh bại quân nhà Trịnh và chiếm cả Thăng Long, nhưng họ lại giao trả đất phía bắc (Đàng Ngoài) lại cho vua Lê và rút quân về lo việc cai trị Đàng Trong.
Kể từ khi Nguyễn Hoàng lên ngôi chúa năm 1558 đến khi Nguyễn Phúc Dương đầu hàng vào năm 1777, các chúa Nguyễn đã cai trị Đàng Trong hơn 200 năm và mở mang biên giới về phía nam cho đến tận vịnh Thái Lan.
Phú Xuân rơi vào tay họ Trịnh, chúa Nguyễn Phúc Thuần cùng với Tân chính Vương Nguyễn Phúc Dương và gia quyến chạy vào Quảng Nam, trong số đó có một người con của Nguyễn Phúc Luân là Nguyễn Phúc Ánh, lúc bấy giờ mới 13 tuổi. Sau khi củng cố lực lượng năm Canh Tý (1780) Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi Vương ở Gia Định. Trong 24 năm Nguyễn Phúc Ánh đã tham chiến nhiều lần với quân của nhà Tây Sơn, thường là bị thất bại và phải chạy trốn. Sau nhờ sự ủng hộ, nhất là về các vũ khí, của các nhà truyền giáo người Pháp (đặc biệt là sự giúp đỡ của ông Pigneau de Béhaine) đồng thời lúc đó vua Quang Trung đã mất, anh em nhà Tây Sơn cũng đang trong cảnh "cốt nhục tương tàn", Nguyễn Phúc Ánh đã đánh bại nhà Tây Sơn, chiếm hẳn đất phía bắc của vua Lê, thống nhất quốc gia và mở đầu cho triều đại nhà Nguyễn.
Để trả thù, Nguyễn Phúc Ánh cũng giết rất nhiều người của nhà Tây Sơn.
Xem thêm bài Chúa Nguyễn.
[sửa] Các vua nhà Nguyễn
Miếu hiệu | Thụy hiệu | Tên | Năm | Niên hiệu | Lăng |
---|---|---|---|---|---|
Thế Tổ | Cao Hoàng Đế | Nguyễn Phúc Ánh | 1802-1819 | 嘉隆 Gia Long |
Thiên Thọ Lăng |
Thánh Tổ | Nhân Hoàng Đế | Nguyễn Phúc Đảm | 1820-1840 | 明命 Minh Mạng |
Hiếu Lăng |
Hiến Tổ | Chương Hoàng Đế | Nguyễn Phúc Miên Tông | 1841-1847 | 紹治 Thiệu Trị |
Xương Lăng |
Dực Tông | Anh Hoàng Đế | Nguyễn Phúc Hồng Nhậm | 1847-1883 | 嗣德 Tự Đức |
Khiêm Lăng |
Cung Tông | Huệ Hoàng Đế | Nguyễn Phúc Ưng Ái | 1883 | 育德 Dục Đức |
An Lăng |
Nguyễn Phúc Hồng Dật | 1883 | 協和 Hiệp Hòa |
|||
Giản Tông | Nghị Hoàng Đế | Nguyễn Phúc Ưng Đăng | 1883-1884 | 建福 Kiến Phúc |
|
Nguyễn Phúc Ưng Lịch | 1884-1885 | 咸宜 Hàm Nghi |
|||
Cảnh Tông | Thuần Hoàng Đế | Nguyễn Phúc Ưng Kỷ | 1885-1889 | 同慶 Đồng Khánh |
Tư Lăng |
Nguyễn Phúc Bửu Lân | 1889-1907 | 成泰 Thành Thái |
|||
Nguyễn Phúc Vĩnh San | 1907-1916 | 維新 Duy Tân |
|||
Hoằng Tông | Tuyên Hoàng Đế | Nguyễn Phúc Bửu Đảo | 1916-1925 | 啟定 Khải Định |
Ứng Lăng |
Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy | 1926-1945 | 保大 Bảo Đại |
- Vua Gia Long sinh năm 1762, mất năm 1819, là con trai thứ ba của Nguyễn Phúc Luân, lên ngôi năm 1802, có 13 con trai và 18 con gái.
- Vua Minh Mạng sinh năm 1791, mất năm 1840, là con trai thứ tư của vua Gia Long, lên ngôi năm 1820 (ngày 1 tháng giêng âm lịch) vì người anh cả là hoàng tử Cảnh lúc đó đã chết (các anh thứ hai và thứ ba chết lúc còn nhỏ), có 78 con trai và 64 con gái.
- Vua Thiệu Trị sinh năm 1807, mất năm 1847, là con trai lớn của vua Minh Mạng, lên ngôi năm 1841 (ngày 1 tháng giêng âm lịch), có 29 con trai và 35 con gái.
- Vua Tự Đức sinh năm 1829, mất năm 1883, là con trai thứ hai của vua Thiệu Trị, lên ngôi năm 1847, vì không có con nên nuôi 3 người cháu. Cả ba sau đều lên làm vua; Dục Đức, Đồng Khánh và Kiến Phúc.
- Vua Dục Đức sinh năm 1852, mất năm 1883, là con trai trưởng (con nuôi) của vua Tự Đức, lên ngôi ngày 20 tháng 7 năm 1883 nhưng 3 ngày sau bị Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết truất phế rồi giết chết, có 11 con trai và 8 con gái. Dục Đức, vì ở trên ngôi có 3 ngày, không có thời giờ chọn niên hiệu; Dục Đức là tên của dinh thự của vị vua này. Miếu hiệu và thụy hiệu về sau mới được tôn xưng.
- Vua Hiệp Hòa sinh năm 1847, mất năm 1883, là con trai thứ 29 của vua Thiệu Trị (tức là em của vua Tự Đức), lên ngôi ngày 30 tháng 7 năm 1883 nhưng 4 tháng sau bị Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết giết chết, không có con.
- Vua Kiến Phúc sinh năm 1869, mất năm 1884, là con trai thứ ba (con nuôi) của vua Tự Đức, lên ngôi ngày 2 tháng 12 năm 1883 nhưng 8 tháng sau thì bị bệnh rồi chết, mọi việc đều được lo bởi Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết, không có con.
- Vua Hàm Nghi sinh năm 1872, mất năm 1943, là cháu gọi vua Tự Đức là chú (có cùng cha với vua Đồng Khánh nhưng vua Đồng Khánh là con nuôi của vua Tự Đức), lên ngôi năm 1884 nhưng bị Pháp truất phế 1 năm sau đó vì mưu lược chống họ, có 1 con trai và 2 con gái. Sau khi bị truất phế vua Hàm Nghi tiếp tục việc chống Pháp nhưng bị bắt vào năm 1888 và bị Pháp đày sang Algérie.
- Vua Đồng Khánh sinh năm 1864, mất năm 1889, là con trai thứ hai (con nuôi) của vua Tự Đức, lên ngôi năm 1885 nhưng sau 3 năm thì bị bệnh rồi chết, có 6 con trai và 3 con gái.
- Vua Thành Thái sinh năm 1879, mất năm 1955, là con trai thứ bảy của vua Dục Đức (người làm vua chỉ trong 3 ngày), lên ngôi năm 1889 nhưng bị Pháp truất phế vào năm 1907 vì chống lại họ, có 16 con trai và nhiều con gái. Vào năm 1916 vua Thành Thái (cùng con là vua Duy Tân) bị Pháp đày sang đảo Réunion, nhưng được đón trở lại Việt Nam vào năm 1947.
- Vua Duy Tân sinh năm 1899, mất năm 1945, là con trai thứ năm của vua Thành Thái, lên ngôi năm 1907 nhưng chỉ lo việc chống Pháp nên bị họ truất phế và đày sang đảo Réunion (cùng với cha là vua Thành Thái) vào năm 1916, có 3 con trai và 1 con gái.
- Vua Khải Định sinh năm 1885, mất năm 1925, là con trai trưởng của vua Đồng Khánh, lên ngôi năm 1916 với ý định hòa hoãn với Pháp, chỉ có 1 con trai.
- Vua Bảo Đại sinh năm 1913, mất năm 1997, là con trai độc nhất của vua Khải Định, lên ngôi năm 1926 trong khi đang du học tại Pháp nên về Việt Nam 6 năm sau đó, có 2 con trai và 3 con gái. Vua Bảo Đại thoái vị ngày 30 tháng 8 năm 1945 và giữ chức "Cố vấn tối cao" cho chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới thành lập, nhưng chẳng bao lâu lại từ chức đi sống tại các nước ngoài. Bảo Đại trở lại Việt Nam với chức vụ Quốc trưởng vào năm 1948 nhưng lại bị mất quyền sau một cuộc trưng cầu dân ý trong năm 1956.
Ấn vàng Minh Mạng |
Vua Đồng Khánh, tại vị từ năm 1885 đến 1888 |
Kiệu rước Vua Duy Tân |
[sửa] Thế phả nhà Nguyễn
1 Gia Long 1802 - 1819 |
|||||||||||||
2 Minh Mạng 1820 - 1840 |
|||||||||||||
3 Thiệu Trị 1841 - 1847 |
|||||||||||||
4 Tự Đức 1847 - 1883 |
Thoại Thái Vương | Kiên Thái Vương | 6 Hiệp Hòa 1883 |
||||||||||
5 Dục Đức 1883 |
9 Đồng Khánh 1885 - 1889 |
8 Hàm Nghi 1884 - 1885 |
7 Kiến Phúc 1883 - 1884 |
||||||||||
10 Thành Thái 1889 - 1907 |
12 Khải Định 1916 - 1925 |
||||||||||||
11 Duy Tân 1907 - 1916 |
13 Bảo Đại 1926 - 1945 |
||||||||||||
Chú thích: Các năm trong bảng là các năm trị vì của vị vua đó
[sửa] Tổ chức
Dưới triều Nguyễn, chức Tể tướng được bãi bỏ. Triều đình lập ra 6 bộ, đứng đầu mỗi bộ là quan Thượng Thư [1]:
- Bộ Lại: coi việc khảo xét công trạng, thảo những tờ chiếu sắc...
- Bộ Hộ: coi việc đinh điền thuế má, tiền bạc...
- Bộ Lễ: coi việc tế tự, tôn phong, cách thức học hành thi cử...
- Bộ Binh: coi việc binh lính...
- Bộ Hình: coi việc pháp luật...
- Bộ Công: coi việc làm cung điện, dinh thự...
[sửa] Tham khảo thêm
- Tài liệu lưu trữ Hán – Nôm do Nha Kinh lược Bắc Kỳ biên soạn. Khối tài liệu này là một trong những nguồn sử liệu gốc có thể phục vụ cho việc nghiên cứu lịch sử về các mặt chính trị, kinh tế, an ninh trật tự, giao thông, tổ chức bộ máy nhà nước, văn hóa xã hội... thời kỳ phong kiến triều Nguyễn. Nó đang được lưu tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I.