Winston Churchill
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
- Mục từ Churchill dẫn đến bài này. Xin đọc về các nghĩa khác tại Churchill (định hướng).
Winston Leonard Spencer-Churchill | |
Thủ tướng Anh | |
---|---|
Nhiệm kỳ | |
10 tháng 5, 1940 – 27 tháng 7 1945 | |
Tiền nhiệm | Neville Chamberlain Clement Attlee |
Kế nhiệm | Clement Attlee Anthony Eden |
Sinh | 13 tháng 11, 1874 Grantham, Lincolnshire |
Mất | 24 tháng 1, 1965 Hyde Park Gate, London |
Nhiệm kỳ | |
26 tháng 10, 1951 – 7 tháng 4, 1955 | |
Đảng | Bảo thủ và Tự do |
Phu nhân | Clementine Hozier |
Ngài Winston Leonard Spencer-Churchill (30 tháng 11, 1874 – 24 tháng 1, 1965) là một nhà chính trị người Anh, nổi tiếng nhất với cương vị Thủ tướng Anh trong thời Thế chiến thứ hai. Ông từng là một người lính, nhà báo, tác gia, họa sĩ và chính trị gia. Churchill, nói chung, được coi là một trong những nhà lãnh đạo quan trong nhất trong lịch sử Anh và lịch sử thế giới. Năm 1953 ông được trao giải Nobel văn học. Năm 2002, Churchill đứng đầu trong một cuộc thăm dò ý kiến về "100 người Anh vĩ đại nhất do BBC tổ chức.
Ông đã được tặng thưởng nhiều danh hiệu cao quí như Huân chương Garter, Huân chương Công lao, Huân chương Companions of Honour, Huân chương Quân địa phương và Viện sĩ Hội Hoàng gia, và là hội viên Hội đồng cơ mật Nữ hoàng Canada.
Họ chính thức của Churchill là Spencer-Churchill (ông có quan hệ với gia đình Spencer), nhưng bắt đầu từ cha ông, Sir Randolph Churchill, nhánh gia đình ông luôn chỉ sử dụng tên Churchill trước công chúng.
[sửa] Tuổi trẻ
Winston Churchill là một hậu duệ của thành viên nổi tiếng đầu tiên trong dòng họ Churchill, John Churchill, Quận công Marlborough thứ nhất. Người cha của Winston và là một chính khách, Sir Randolph Churchill, là con trai thứ ba của John Spencer-Churchill, Quận công Marlborough thứ bảy; mẹ của Winston là Lady ("Quý bà") Randolph Churchill (tên khai sinh Jennie Jerome), con gái nhà triệu phú Mỹ Leonard Jerome.
Winston Churchill sinh tại Lâu đài Blenheim ở Woodstock, Oxfordshire; ông đã ra đời sớm hơn dự kiến khi mẹ ông đang tham gia một buổi khiêu vũ. Như thói thường đối với những cậu bé con nhà thượng lưu thời buổi ấy, hầu như trong cả thời thơ ấu ông học tại các trường nội trú. Ông tham dự kỳ thi vào Trường Harrow nhưng khi làm bài tiếng Latin, ông đã cẩn thận viết tước vị, tên ông, số 1 và tiếp sau là một chấm, và không thể viết thêm được gì. Tuy vậy, ông vẫn được nhận vào trường, nhưng bị xếp vào lớp cuối nơi dạy chủ yếu môn tiếng Anh, môn ông học rất giỏi. Hiện nay, ngôi trường công có lịch sử lâu đời này hàng năm có trao một giải thưởng về tiểu luận mang tên Churchill với đầu bài do vị trưởng khoa tiếng Anh ra đề.
Ông hiếm khi được mẹ, người ông thực sự tôn thờ, tới thăm, dù ông viết nhiều bức thư cầu khẩn bà tới hay đồng ý để cha ông cho ông về nhà. Jennie Jerome (mẹ ông, và sau này được gọi là Lady Randolph) có một cá tính mạnh, và sau khi lấy Sir Randolph bà đã có quan hệ với nhiều người đàn ông nắm quyền lực lúc đó, đa số những mối quan hệ này đều được chồng bà biết đến. Những năm về sau, khi Winston đã tới tuổi thanh niên, ông và mẹ ngày càng gần nhau hơn, quan hệ giữa ông và mẹ phát triển theo kiểu hầu như giống tình cảm giữa một người em trai và chị gái hơn là giữa mẹ và con, gần gũi nhau với một tình cảm bạn bè sâu sắc.
Ông hăng hái nối bước nghề nghiệp của cha nhưng luôn có khoảng cách trong quan hệ với cha mình. Năm 1886, một lần ông bị thuật lại là đã tuyên bố "Cha tôi là Bộ trưởng bộ tài chính và một ngày nào đó tôi cũng sẽ nắm chức vụ đó." Tuổi thơ cô đơn một mình đã ghi dấu ấn lên cả cuộc đời ông. Mặt khác, khi còn nhỏ ông rất gần gũi với vú nuôi là Elizabeth Anne Everest (người được gọi là vú em), ông đã rất buồn khi bà mất ngày 3 tháng 7, 1895. Ông trả tiền hỏa táng và làm bia mộ cho bà tại nghĩa trang thành phố London.
Tại trường Harrow, Churchill có kết quả học tập kém và thường xuyên bị phạt vì làm bài không tốt và thiếu nỗ lực. Bản tính của ông là độc lập và nổi loạn và ông không thể học tập được các môn lý thuyết, thi trượt nhiều môn và ông đã từ chối học các môn kinh điển (như, tiếng Latin và tiếng Hy Lạp cổ). Dù vậy, ông chứng tỏ khả năng xuất sắc trong những lĩnh vực như toán học và lịch sử, đối với hai môn này ông luôn đứng đầu lớp. Quan điểm cho rằng Churchill thiếu khả năng học tập là do chính ông đưa ra, có lẽ vì sự không hài lòng của cha ông đối với chàng trai trẻ Churchill và sẵn sàng coi con trai như một sự thất vọng. Tuy nhiên, ông đã thực sự trở thành nhà vô địch môn đánh kiếm của trường.
[sửa] Quân đội
Churchill đã theo học tại Học viện Quân sự Hoàng gia Sandhurst. Năm 20 tuổi, ngay sau khi tốt nghiệp, ông gia nhập quân đội với quân hàm Trung uý thuộc trung đoàn kỵ binh hạng nhẹ. Trung đoàn này đóng quân ở Bangalore, Ấn Độ. Khi tới Ấn Độ, Churchill bị trật khớp tay khi nhoài từ tàu ra với một sợi xích trên bến và bị quăng vào ke. Cánh tay này đã gây nhiều vấn đề cho ông trong những năm về sau, đôi khi nó lại rời ra khỏi khớp.
Ở Ấn Độ công việc chính của trung đoàn Churchill là chơi polo, một hoàn cảnh không có sức lôi cuốn đối với chàng trai trẻ, đang muốn lao vào hành động quân sự. Ông dành thời gian để tự học qua các cuốn sách mà ông đã gửi đi từ trước. Câu lạc bộ Bangalore, nơi ông từng là một thành viên, có những bản ghi chép (mà họ đem ra trưng cho khách du lịch) cho thấy Winston Churchill đã quên không trả món hội phí 13 rupees, vì "không có tiền", một khoản nợ mà họ tin rằng vẫn còn chưa giải quyết xong [1].
Trong khi còn đóng quân ở Ấn Độ, ông đã bắt đầu tìm kiếm các cuộc chiến tranh. Năm 1895 ông và Reggie Barnes được cử tới Cuba để quan sát các trận đánh của người Tây Ban Nha chống lại du kích người Cuba. Churchill cũng được uỷ quyền viết về cuộc xung đột đó cho tờ báo Daily Graphic. Với niềm hứng khởi, Churchill lần đầu tiên lao vào lửa đạn đúng ngày sinh lần thứ hai mươi mốt của mình. Trên đường tới Cuba ông cũng lần đầu thăm nước Mỹ, được giới thiệu vào xã hội New York bởi một trong những người hâm mộ mẹ ông, Bourke Cockran. Năm 1897 Churchill muốn tới quan sát Chiến tranh Hy Lạp-Thổ Nhĩ Kỳ nhưng cuộc xung đột này đã hoàn toàn chấm dứt trước khi ông tới nơi. Sau đó ông tiếp tục rời nơi đó quay về Anh trước khi nghe thông tin về cuộc nổi dậy Pathan ở Biên giới tây bắc và nhanh chóng trở về Ấn Độ để tham gia vào chiến dịch dẹp yên nó.
Từ trước đó Churchill đã nhận được lời hứa của Sir Bindon Blood, người chỉ huy cuộc viễn chinh này, rằng nếu ông nắm quyền chỉ huy một lần nữa, ông sẽ mang Churchill theo. Ông không cần tốn thời gian để nhắc Blood về lời hứa đó và đã được tham gia vào chiến dịch sáu tuần, ông cũng viết những bài báo cho tờ The Pioneer và The Daily Telegraph với giá 5 bảng Anh một bài. Tới tháng 10 năm 1897 Churchill quay về Anh và cuốn sách đầu tiên của ông, "Câu chuyện của Lực lượng hành quân Malakand", kể về chiến dịch đó được xuất bản vào tháng 12.
Trong khi về mặt chính thức vẫn đang đóng quân ở Ấn Độ, và được phép đi công tác dài hạn, Churchill vẫn cố gắng ghi tên vào đội quân đang được tập hợp và nằm dưới quyền chỉ huy của Sir Horatio Herbert Kitchener và dự định hoàn thành cuộc tái chinh phục Sudan. Kitchener phản đối việc thu nhận Churchill, với cảm giác rằng ông có thể sẽ quay lại với trung đoàn của mình ở Ấn Độ, nhưng Churchill đã đưa ra nhiều điều kiện ràng buộc để được chấp nhận - thậm chí còn sắp xếp để Kitchener nhận được một bức điện từ Thủ tướng Robert Gascoyne-Cecil, Hầu tước Salisbury. Cuối cùng, Churchill được tham gia vào cuộc chiến sau khi nhận được một vị trí trong đoàn kỵ binh số 21 - một lực lượng mà thành phần của nó được lựa chọn bởi Bộ quốc phòng Anh, chứ không phải bởi Kitchener. Ông cũng làm việc với tư cách phóng viên cho tờ Morning Post, với mức thù lao 15 bảng Anh cho một bài báo. Trong khi ở Sudan, Churchill tham dự vào cái từng được miêu tả là đội kỵ binh thực sự cuối cùng tham gia vào trận Omdurman. Tới tháng 10 năm 1898 ông đã quay về Anh và bắt đầu viết cuốn sách hai tập The River War, được xuất bản vào năm sau đó.
Năm 1899 Churchill rời quân ngũ và quyết định theo nghiệp nghị trường. Ông ra tranh cử với tư cách ứng cử viên Đảng bảo thủ ở Khu vực bầu cử Oldham trong một cuộc bầu cử phụ vào năm đó. Ông về thứ ba (lúc ấy Oldham là khu chỉ bầu ra hai ghế), và không trúng cử.
Ngày 12 tháng 10 năm 1899 Cuộc chiến Anh-Boer lần hai giữa Anh và những người Afrikan bùng nổ ở Nam Phi. Churchill được cử làm phóng viên chiến tranh cho tờ Morning Post, nhận lương 250 bảng Anh một tháng trong bốn tháng. Một lần ở Nam Phi ông đã chấp nhận đi nhờ trên một chuyến tàu hoả vũ trang của Quân đội Anh dưới quyền chỉ huy của Aylmer Haldane. Đoàn tàu này bị mìn phục kích của người Boer làm trật đường ray. Dù không chính thức là một chiến binh, Churchill vẫn nhận lãnh trách nhiệm trong những công việc sửa chữa và khôi phục để đầu tàu và nửa số toa còn lại chở theo thương binh có thể tiếp tục lên đường. Tuy nhiên, Churchill không gặp may và ông cùng với các binh lính và sĩ quan khác bị bắt giữ trong trại tù binh chiến tranh ở Pretoria, dù có những nghi ngờ về tư cách quân nhân của ông.
Churchill tìm cách trốn trại, gây ra sự chỉ trích rất lâu về sau này và sự tranh luận khi buộc tội rằng ông đã không chờ Haldane và những người khác đã cùng bàn kế hoạch chạy trốn với ông, nhưng những người đó đã không thể, hay không muốn, chấp nhận rủi ro bị trượt ngã khỏi hàng rào trong khi Churchill đã dám làm. Khi đã ở bên ngoài nhà tù Pretoria đã đi qua gần 300 dặm (480 km) để tới Lourenço Marques của người Bồ Đào Nha ở Vịnh Delagoa. Ông đã vượt qua được nhờ vào sự giúp đỡ của một người chủ mỏ người Anh, ông ta đã giấu Churchill trong mỏ của mình và đưa giấu ông lên một chuyến tàu hoả chạy ra khỏi lãnh địa của người Boer. Cuộc tẩu thoát này biến ông hầu như trở thành một anh hùng dân tộc của người Anh ở thời điểm đó, mặc dù thay vì quay về nhà ông lại bắt tàu thuỷ đến Durban và gia nhập vào đội quân của tướng Redvers Buller khi họ hành quân cứu trợ cho Ladysmith và chiếm Pretoria. Lần này, dù tiếp tục với tư cách là phóng viên chiến tranh, Churchill có được uỷ quyền của Trung đoàn Kỵ binh nhẹ của Nam Phi. Ông chiến đấu ở Spion Kop và ở trong số một trong những binh sĩ Anh đầu tiên tiến vào Ladysmith và Pretoria; trên thực tế, ông và Charles Spencer-Churchill, Quận công Marlborough, anh họ của ông, đã có thể tiến trước phần còn lại của các đội quân ở Pretoria, nơi họ đã yêu cầu và chấp nhận sự đầu hàng của đội quân Boer số 52 đang canh gác nhà tù ở đó.
Hai cuốn sách của Churchill về chiến tranh Boer, "Từ London tới Ladysmith qua Pretoria" và "Cuộc hành quân của Ian Hamilton", được xuất bản vào tháng 5 và tháng 10 năm 1900.
[sửa] Nghị viện
Sau khi trở về từ Nam Phi, một lần nữa Churchill lại ra ứng cử với tư cách ứng cử viên Đảng bảo thủ ở Oldham, lần này là trong Cuộc tổng tuyển cử 1900, hay "Cuộc bầu cử Khaki".
Ông trúng cử, nhưng thay vì tham gia cuộc họp khai mạc nghị viện, ông lên tàu đi diễn thuyết xuyên nước Anh và nước Mỹ, bằng cách đó ông kiếm được mười nghìn bảng Anh. (Thời ấy các thành viên của nghị viện không được trả lương và Churchill cũng không được coi là giàu có theo những tiêu chuẩn lúc đó.) Khi ở Mỹ, một trong những bài phát biểu của ông được Mark Twain giới thiệu, và ông đã ăn tối với Thống đốc New York và Phó tổng thống Theodore Roosevelt.
Tháng 2 năm 1901, Churchill quay trở lại Anh để vào nghị viện, và ông liên kết với một nhóm thành viên Đảng bảo thủ bất đồng quan điểm do Sir Hugh Cecil lãnh đạo, nhóm này được gọi là Hughligan, một sự chơi chữ từ chữ hooligan ("người vô kỷ luật"). Trong khóa đầu ở nghị viện, Churchill đã tỏ ra ưa tranh cãi bằng cách phản đối các ước tính về quân đội của chính phủ, đưa ra lý lẽ chống lại chi tiêu quá mức cho quân đội. Tới năm 1903 ông ngày càng tách biệt khỏi các quan điểm của Sir Hugh Cecil. Ông cũng phản đối người lãnh đạo Công đoàn những người tự do Joseph Chamberlain, người lãnh đạo của đảng đang liên minh với Đảng bảo thủ. Chamberlain đề xuất những cải cách thuế quan rộng rãi nhằm mục tiêu bảo vệ vị trí vượt trội của nền kinh tế Anh bằng những hàng rào thuế quan. Các chống đối của Churchill làm ông bị chính những người ủng hộ mình ghét cay ghét đắng - thực vậy, những thành viên Đảng bảo thủ đã dàn xếp để cùng bỏ ra ngoài một khi ông phát biểu. Khu vực bầu cử của ông đã phế truất ông, mặc dù ông vẫn tiếp tục đại diện cho Oldham cho tới kỳ bầu cử tiếp sau.
Năm 1904 vì sự bất mãn của mình với những người bảo thủ và sức lôi cuốn của những người tự do đã trở nên mạnh mẽ nên sau khi quay về từ cuộc họp nghị viện ở Whitsun ông đã gia nhập đảng khác để trở thành một thành viên của Đảng tự do. Khi đã chuyển sang Đảng tự do, ông vẫn tiếp tục chiến dịch kêu gọi ủng hộ thương mại tự do. Ghế đại diện cho vùng khu vực bầu cử nghị viện Anh, Tây bắc Manchester đã được giành cho ông sau khi ông thắng lợi trong Cuộc tổng tuyển cử 1906.
Từ 1903 đến 1905, Churchill cũng bắt tay vào viết cuốn "Sir Randolph Churchill", một cuốn tiểu sử hai tập về cha mình, ra mắt vào năm 1906 và được đón nhận như một kiệt tác. Tuy nhiên, khuynh hướng của người con trong gia đình đã làm ông giảm nhẹ một số mặt kém hấp dẫn của người cha.
[sửa] Chính phủ
Khi Đảng tự do thắng cử và Henry Campbell-Bannerman lên làm thủ tướng vào tháng 12 năm 1905 Churchill trở thành Trợ lý bộ trưởng ngoại giao của các thuộc địa. Phục vụ dưới quyền Bộ trưởng ngoại giao của các thuộc địa, Victor Bruce, Bá tước Elgin thứ chín, Churchill đã giải quyết vấn đề chấp nhận các hiến pháp cho các nước cộng hòa Boer thất trận vùng Transvaal và Thuộc địa sông Orange và với sự nảy sinh vấn đề "lao động nô lệ Trung Quốc" ở các mỏ tại Nam Phi. Ông cũng đã trở thành một người phát ngôn có uy tín về thương mại tự do. Churchill nhanh chóng trở thành thành viên có nổi bật của chính phủ bên ngoài Nội các, và khi Campbell-Bannerman được thay thế bằng Herbert Henry Asquith năm 1908, không ai ngạc nhiên khi Churchill được đưa vào Nội các với tư cách Chủ tịch Ủy ban Thương mại. Theo luật ở thời đó, một bộ trưởng nội các mới được chỉ định buộc phải tái thắng cử ở một cuộc bầu cử phụ. Churchill mất ghế đại diện cho Manchester vào tay ứng cử viên bảo thủ William Joynson-Hicks, Tử tước Brentford thứ nhất, nhưng ông nhanh chóng tái đắc cử ở một cuộc bầu cử phụ khác tại khu vực bầu cử Dundee. Với tư cách Chủ tịch Ủy ban Thương mại, ông theo đuổi những cải cách xã hội căn bản cùng với David Lloyd George, vị Bộ trưởng Tài chính mới.
Năm 1910 Churchill được thăng lên chức Bộ trưởng Nội vụ, nhưng ông gây nhiều tranh luận với chức vụ này. Một bức ảnh nổi tiếng thời đó diễn tả một Churchill mạnh mẽ nhận trách nhiệm cá nhân vào Cuộc vây hãm đường phố ở Sidney, xảy ra tháng 1 năm 1911, đứng ở góc phố chăm chú nhìn vào một khẩu súng trận giữa những kẻ bất mãn ở một góc và những người lính Scotland. Vai trò của ông gây ra nhiều chỉ trích. Ngôi nhà bị bao vây bốc cháy. Churchill cấm lính cứu hỏa vào trong, buộc những kẻ tội phạm phải lựa chọn đầu hàng hay là chết. Arthur Balfour đã hỏi, "Ông ấy [Churchill] và nhà nhiếp ảnh cả hai đều đang tiêu phí các tính mạng đáng giá. Tôi hiểu điều nhà nhiếp ảnh phải làm nhưng Sir [Churchill] đáng kính kia đang làm gì vậy?"
1910 cũng chính Churchill ngăn cản việc sử dụng quân đội để giải quyết cuộc tranh luận tại mỏ than Cambrian ở Tonypandy. Ban đầu Churchill phong tỏa việc sử dụng quân đội vì sợ sẽ lặp lại sự kiện ngày Chủ nhật đẫm máu năm 1887 ở Quảng trường Trafalgar. Tuy nhiên quân đội đã được triển khai để bảo vệ các mỏ và tránh các cuộc náo loạn khi mười ba người đình công tìm cách tấn công, một hành động đã phá vỡ truyền thống không can thiệp vào các công việc dân sự của quân đội và dẫn tới ác cảm kéo dài đối với Churchill ở Wales.
Năm 1911, Churchill trở thành First Lord of the Admiralty, vị trí mà ông nắm giữ cả trong Thế chiến thứ nhất. Ông thúc đẩy những cố gắng cải cách của quân đội, gồm cả phát triển hàng không hải quân, xe tăng, và chuyển nhiên liệu sử dụng từ than sang dầu lửa, một nhiệm vụ kỹ thuật lớn, cũng dựa trên việc chiếm giữ những quyền lợi dầu hỏa của vùng Lưỡng Hà, vào khoảng năm 1907 thông qua cục tình báo và dùng Công ty dầu khí hoàng gia Miến Điện làm bình phong.
Sự phát triển của xe tăng chiến đấu được cấp tiền từ quỹ nghiên cứu của hải quân thông qua Ủy ban Landships, và, mặc dù một thập kỷ sau sự phát triển của xe tăng chiến đấu được coi là một toan tính thiên tài, lúc ấy nó bị coi là không được ưu tiên về vốn. Xe tăng chiến đấu được triển khai một cách lạc lõng năm 1915, và Churchill rất bực tức về điều đó. Ông muốn một đội xe tăng được dùng ngụy trang dưới một làn khói để làm bất ngờ quân Đức, và mở cửa tiến vào các hầm hào bằng cách triệt hạ dây thép gai và tạo ra một lĩnh vực có sức đột phá.
Năm 1915 Churchill là một trong những kỹ sư quân đội và chính trị của cuộc đổ bộ thất bại Gallipoli vào Dardanelles trong Thế chiến thứ nhất, việc này làm ông bị coi là "tên đồ tể ở Gallipoli". Khi Asquith lập ra một chính phủ mọi đạng phái, những người bảo thủ yêu cầu giáng chức Churchill nếu ông muốn họ tham gia vào đó. Trong nhiều tháng, Churchill làm việc với tư cách Thủ hiến lãnh địa Lancaster là chức vụ không có thực quyền, trước khi rút khỏi chính phủ khi cảm thấy ông không còn được sử dụng thực sự nữa. Ông gia nhập quân đội, dù vẫn là nghị viên, và phục vụ nhiều tháng ở Mặt trận phía Tây. Giai đoạn này phụ tá chỉ huy của ông là Archibald Sinclair, một người trẻ tuổi và sau này sẽ lãnh đạo Đảng tự do.
[sửa] Quay lại quyền lực
Tháng 12 năm 1916, Asquith từ chức Thủ tướng và được thay thế bởi Lloyd George. Tuy nhiên, đó vẫn chưa phải là lúc đương đầu với nguy cơ về sự giận dữ từ phía những người bảo thủ nếu đưa Churchill trở lại với chính phủ. Tuy nhiên, vào tháng 1 năm 1917 Churchill được chỉ định làm Bộ trưởng vũ khí. Ông là người đưa ra Quy luật Mười năm cầm quyền. Tuy vậy, nhiệm vụ quan trọng nhất của ông trong Văn phòng Chiến tranh là sự can thiệp của Đồng Minh vào cuộc Nội chiến Nga. Churchill là một người ủng hộ trung thành cho sự can thiệp từ bên ngoài, tuyên bố rằng Chủ nghĩa Bolshevic phải bị "bóp nghẹt từ trong nôi". Ông thành công trong việc yêu cầu nội các bị chia rẽ và lỏng lẻo của Anh phải tăng cường và kéo dài sự tham gia của người Anh vào cuộc nội chiến đó với mức độ cao hơn rất nhiều những mong ước của các nhóm đa số trong nghị viện hay trong quốc gia - và đương đầu với sự thù địch từ phía Đảng Lao động. Năm 1920, sau khi những lực lượng cuối cùng của Anh đã rút về, Churchill đã cung cấp vũ khí cho những người Ba Lan khi họ tấn công Ukraina. Ông trở thành Bộ trưởng thuộc địa quốc gia năm 1921 và là một trong những người đã ký vào Hiệp ước Anh-Ireland năm 1921, thành lập nên Nhà nước Ireland Tự do.
[sửa] Nghề nghiệp giữa hai cuộc chiến
Vào tháng 10 năm 1922, Churchill phải mổ ruột thừa. Khi trở lại, ông biết rằng chính phủ đã sụp đổ và một cuộc tổng tuyển cử sắp diễn ra. Đảng Tự do lúc ấy đang có lục đục nội bộ và chiến dịch tranh cử của Churchill rất yếu kém. Ông mất ghế ở Dundee vào tay ứng cử viên phe cấm đoán, Edwin Scrymgeour, và nói đùa rằng ông đã mất cả vị trí trong chính phủ, ghế đại biểu trong nghị viện và cả ruột thừa cùng một lúc. Trong cuộc Tổng tuyển cử năm 1923, ông lại sát cánh cùng phe Tự do, và thua cử ở Leicester, nhưng vài tháng sau đó, ông lại quay sang Đảng bảo thủ, mặc dù ban đầu sử dụng chiêu bài "Chống người xã hội" và là "người theo chủ nghĩa hợp hiến". Chưa tới một năm sau, trong cuộc Tổng tuyển cử năm 1924, ông được bầu làm đại biểu cho vùng Epping với tư cách "người theo chủ nghĩa hợp hiến" và với sự hỗ trợ của Đảng bảo thủ (một bức tượng để vinh danh ông ở Woodford Green đã được dựng lên khi Woodford Green còn là một khu bên trong vùng bầu cử Epping). Năm sau đó, ông chính thức gia nhập Đảng bảo thủ, và gượng chống chế rằng "Bất kỳ ai đều có thể rời bỏ đảng, nhưng tất nhiên là cũng cần khá nhiều khéo léo để gia nhập trở lại."
Ông được chỉ định làm Bộ trưởng Tài chính năm 1924 dưới thời Stanley Baldwin và có nhiệm vụ phụ trách việc phục hồi hệ thống bản vị vàng đầy tai hại, khiến cho lạm phát, thất nghiệp, và những vụ đình công của công nhân mỏ nổi lên dẫn tới cuộc Tổng đình công năm 1926. Quyết định này đã khiến nhà kinh tế John Maynard Keynes phải viết cuốn sách "Những hậu quả kinh tế của Churchill", đưa ra lý lẽ chính xác rằng việc quay lại áp dụng bản vị vàng sẽ dẫn tới giảm phát kinh tế thế giới. Sau này Churchill coi đây là một trong những quyết định tồi nhất trong cuộc đời ông. Để công bằng, cũng phải nói rằng ông không phải là một nhà kinh tế và rằng ông đã hành động theo lời khuyên của Thống đốc Ngân hàng Anh Quốc, Montagu Norman (Keynes đã nói về ông này, "Luôn rất quyến rũ, và luôn rất sai lầm.")
Trong cuộc Tổng đình công năm 1926, Churchill bị cho rằng đã đề xuất sử dụng súng máy để đối phó với những thợ mỏ đình công. Churchill làm chủ bút tờ báo của chính phủ, tờ British Gazette (Công báo Anh), và trong cuộc tranh luận ông đã đưa ra lý lẽ rằng "hoặc đất nước sẽ đập tan được cuộc Tổng đình công, hoặc cuộc Tổng đình công sẽ đập tan đất nước". Hơn nữa, ông tuyên bố trong cuộc tranh luận rằng Chủ nghĩa phát xít của Benito Mussolini đã "giúp đỡ cả thế giới", cho rằng nó có "một con đường để chiến đấu với những lực lượng có âm mưu lật đổ" - có nghĩa là, ông coi chế độ phải là một lực lượng bảo vệ chống lại mối đe doạ xâm nhập của cách mạng cộng sản. Ở một quan điểm, Churchill còn đi xa tới mức gọi Mussolini là "Thiên tài của Roma ... nhà lập pháp lớn nhất của loài người"[1].
Chính phủ bảo thủ bị đánh bại tại cuộc Tổng tuyển cử năm 1929. Trong hai năm tiếp theo, Churchill tỏ vẻ ghẻ lạnh với ban lãnh đạo đảng Bảo thủ về những vấn đề thuế quan bảo hộ và phong trào đòi độc lập Ấn Độ, mà ông phản đối. Ông bôi nhọ người cha phong trào đòi độc lập Ấn Độ, Mahatma Gandhi, là "một thầy tu khổ hạnh bán khoả thân" người "cần phải bị đập cho một trận, trói chân tay vào cổng thành Delhi và sau đó mang ra cho một con voi lớn với vị phó vương cưỡi trên lưng giẫm đạp". Khi Ramsay MacDonald thành lập Chính phủ quốc gia năm 1931, Churchill không được mời tham gia. Lúc ấy ông đang ở giai đoạn tồi tệ nhất về nghề nghiệp, giai đoạn được gọi là "những năm tháng thất lạc". Ông dành thời gian mấy năm tiếp sau đó để tập trung vào viết lách, gồm cuốn "Marlborough: Cuộc đời và thời đại" - một cuốn tiểu sử về tổ tiên ông là John Churchill, Quận công Marlborough thứ nhất - và "Một lịch sử của những người nói tiếng Anh" (cuốn này không được xuất bản mãi tới sau Thế chiến thứ hai). Ông trở nên nổi tiếng nhất về những câu nói chống lại việc trao lại độc lập cho Ấn Độ (xem Ủy ban Simon và Đạo luật Chính phủ Ấn Độ 1935).
Dù vậy, sự chú ý của ông ngay lập tức chuyển sang sự nổi lên nhanh chóng của Adolf Hitler và những mối nguy từ việc tái vũ trang của nước Đức. Trong một thời gian, ông là người duy nhất kêu gọi nước Anh phải tự tăng cường sức mạnh nhằm chống lại tình trạng chuẩn bị chiến tranh của Đức[2]. Churchill là một người chỉ trích mãnh liệt chính sách nhân nhượng của Neville Chamberlain đối với Hitler, dẫn đầu phe bảo thủ phản đối Hiệp ước München mà Chamberlain đã tuyên bố là "hoà bình trong thời đại của chúng ta"[3]. Ông cũng tuyên bố là người ủng hộ vua Edward VIII trong thời gian xảy ra cuộc khủng hoảng thoái vị, dẫn tới một số suy đoán rằng ông có thể được chỉ định làm Thủ tướng nếu nhà vua từ chối nghe lời khuyên của Baldwin và vì thế buộc chính phủ phải từ chức. Tuy nhiên, điều này đã không xảy ra và Churchill thấy mình bị cô lập về chính trị và bị bôi bác tới bầm dập trong khoảng thời gian sau đó.
[sửa] Vai trò Thủ tướng trong cuộc chiến
Sau khi Thế chiến thứ hai bùng nổ, Churchill được chỉ định làm Bộ trưởng Hải quân là chức vụ ông đã đảm nhiệm thời Thế chiến thứ nhất, và trong Hạm đội Hải quân Hoàng gia đã có nhiều tiếng kêu vui mừng: "Winston đã trở lại!"
Trong cương vị này ông đã chứng tỏ là một trong những bộ trưởng tài năng nhất ở thời gọi là "Chiến tranh giả", khi mà hành động đáng chú ý nhất chỉ diễn ra trên biển. Churchill đề xuất việc tấn công chiếm giữ trước cảng quặng sắt Narvik của nước Na Uy trung lập và mỏ sắt Kiruna của Thuỵ Điển ngay từ đầu cuộc chiến. Tuy nhiên, Chamberlain và toàn bộ Chính phủ Chiến tranh không đồng ý, và chiến dịch này bị trì hoãn tới tận khi Đức tấn công Na Uy, đã thành công tuy có nỗ lực của Anh.
Tháng 5 năm 1940, ngay lúc Đức đánh Pháp bằng một cuộc tấn công chớp nhoáng xuyên qua Các quốc gia vùng thấp, rõ ràng là Chamberlain đã không còn được dân chúng tin tưởng ở cương vị điều hành chiến tranh. Chamberlain từ chức, Churchill được chỉ định làm Thủ tướng và lập nên một chính phủ mọi đảng phái. Có lẽ trước khi Churchill được chỉ định làm Thủ tướng, nhà vua đã cân nhắc tới việc chỉ định Lord Edward Frederick Lindley Wood, Bá tước Halifax thứ nhất. Lý do của việc này được cho là vì nền quân chủ sợ rằng nó sẽ không thể tồn tại sau cuộc chiến, và rằng Bá tước Halifax là người thuộc phe nhân nhượng trước đây có thể đàm phán một thoả hiệp với Hitler cho phép nước Anh đứng ngoài cuộc chiến và giữ gìn nền quân chủ[4]. Mặc dù những sự kiện thường được dẫn chứng để biện minh lý do Halifax không được bổ nhiệm cho rằng vì ông sợ ông không thể điều hành chính phủ một cách hiệu quả bởi vì ông là thành viên của Thượng nghị viện chứ không phải Hạ nghị viện, cũng có lời bóng gió rằng Churchill đã sử dụng biện pháp hăm doạ để đạt được mục đích. Mặc dù theo truyền thống Thủ tướng không tư vấn cho nhà vua về người kế vị, Chamberlain đã muốn một người có khả năng thu hút được sự ủng hộ của ba đảng lớn trong Hạ nghị viện. Một cuộc gặp gỡ với hai vị lãnh đạo các đảng kia đã dẫn tới việc giới thiệu Churchill. Vì thế, George VI có lẽ đã bắt buộc phải chấp nhận Churchill làm Thủ tướng. Churchill, không theo truyền thống, không gửi cho Chamberlain một bức thư bày tỏ sự lấy làm tiếc về sự từ chức của Chamberlain[5].
Công lao lớn nhất của Churchill là ông đã từ chối đầu hàng khi khả năng bị người Đức đánh bại là rất lớn và luôn phản đối bất kỳ một sự đàm phán nào với Đức, giữ vững chính sách buộc nước Đức Phát xít đầu hàng vô điều kiện, đã được thoả thuận trong cuộc gặp Tam cường tại Hội nghị Tehran.
In response to previous criticisms that there had been no clear single minister in charge of the prosecution of the war, Churchill created and took the additional position of Minister of Defence. He immediately put his friend and confidant, the industrialist and newspaper baron Lord Beaverbrook, in charge of aircraft production. It was Beaverbrook's astounding business acumen that allowed Britain to quickly gear up aircraft production and engineering that eventually made the difference in the war.
Churchill's speeches were a great inspiration to the embattled United Kingdom. His first speech as Prime Minister was the famous "I have nothing to offer but blood, toil, tears, and sweat" speech. He followed that closely with two other equally famous ones, given just before the Battle of Britain. One included the immortal line, "We shall defend our island, whatever the cost may be, we shall fight on the beaches, we shall fight on the landing grounds, we shall fight in the fields and in the streets, we shall fight in the hills; we shall never surrender." The other included the equally famous "Let us therefore brace ourselves to our duties, and so bear ourselves that, if the British Empire and its Commonwealth last for a thousand years, men will still say, 'This was their finest hour.' " At the height of the Battle of Britain, his bracing survey of the situation included the memorable line "Never in the field of human conflict was so much owed by so many to so few", which engendered the enduring nickname "The Few" for the Allied fighter pilots who won it.
His good relationship with Franklin D. Roosevelt secured the United Kingdom vital supplies via the North Atlantic Ocean shipping routes. It was for this reason that Churchill was relieved when Roosevelt was re-elected. Upon re-election, Roosevelt immediately set about implementing a new method of not only providing military hardware to Britain without the need for monetary payment, but also of providing, free of fiscal charge, much of the shipping that transported the supplies. Put simply, Roosevelt persuaded Congress that repayment for this immensely costly service would take the form of defending the USA; and so Lend-lease was born. Churchill had 12 strategic conferences with Roosevelt which covered the Atlantic Charter, Europe first strategy, the Declaration by the United Nations and other war policies. Churchill initiated the Special Operations Executive (SOE) under Hugh Dalton's Ministry of Economic Warfare, which established, conducted and fostered covert, subversive and partisan operations in occupied territories with notable success; and also the Commandos which established the pattern for most of the world's current Special Forces. The Russians referred to him as the "British Bulldog". This could also be reflected by Churchill's willingness to face danger compared to his two allies, Franklin Roosevelt and Josef Stalin, who appeared reluctant in visiting enemy lines. This meant Churchill was very close to the Germans and ran the high risk of assassination. Indeed, Churchill was close to death, if not by his enemies, but his hard work ran the risk of health problems. This was shown by a mild heart attack he suffered in December 1941 at the White House and also in December 1943 due to pneumonia. There have been rumours that Churchill's heart actually stopped but his bodyguard administered the correct procedure and then it was covered up; however, this has never been confirmed.
Some of the military actions during the war remain controversial. Churchill was at best indifferent and perhaps complicit in the Great Bengal famine of 1943 which took the lives of at least 2.5 million Bengalis. Japanese troops were threatening British India after having successfully taken neighbouring British Burma. Some consider the British government's policy of denying effective famine relief a deliberate and callous scorched earth policy adopted in the event of a successful Japanese invasion. Churchill supported the bombing of Dresden shortly before the end of the war; many have since maintained that the city was primarily a civilian target with little military value. However, the bombing was seen at the time as being helpful to the Soviet allies.
Churchill was party to treaties that would redraw post-WWII European and Asian boundaries. These were discussed as early as 1943. Proposals for European boundaries and settlements were officially agreed to by Harry S. Truman, Churchill, and Stalin at Potsdam. At the second Quebec Conference in 1944 he drafted and together with U.S. President Franklin D. Roosevelt signed a toned down version of the original Morgenthau Plan, where they pledged to convert Germany after her unconditional surrender "into a country primarily agricultural and pastoral in its character."[6]
The settlement concerning the borders of Poland, i.e. the boundary between Poland and the Soviet Union and between Germany and Poland, was viewed as a betrayal in Poland during the post-war years, as it was established against the views of the Polish government in exile. Churchill was convinced that the only way to alleviate tensions between the two populations was the transfer of people, to match the national borders. As he expounded in the House of Commons in 1944, "Expulsion is the method which, insofar as we have been able to see, will be the most satisfactory and lasting. There will be no mixture of populations to cause endless trouble... A clean sweep will be made. I am not alarmed by these transferences, which are more possible in modern conditions." The resulting expulsions of Germans were in the end carried out in a way which resulted in much hardship and the death of up to 2,100,000. Churchill opposed the effective annexation of Poland by the Soviet Union and wrote bitterly about it in his books, but he was unable to prevent it at the conferences.
On October 9, 1944, he and Eden were in Moscow, and that night they met Stalin in the Kremlin, without the Americans. Bargaining went on throughout the night. Churchill wrote on a scrap of paper that the Stalin had a 90 percent "interest" in Romania, Britain a 90 percent "interest" in Greece, both Russia and Britain a 50 percent interest in Yugoslavia. When they got to Italy, Stalin ceded that country to Churchill. The crucial questions arose when the Ministers of Foreign Affairs discussed "percentages" in Eastern Europe. Molotov's proposals were that Russia should have a 75 percent interest in Hungary, 75 percent in Bulgaria, and 60 percent in Yugoslavia. This was Stalin's price for ceding Italy and Greece. Eden tried to haggle: Hungary 75/25, Bulgaria 80/20, but Yugoslavia 50/50. After lengthy bargaining they settled on an 80/20 division of interest between Russia and Britain in Bulgaria and Hungary, and a 50/50 division in Yugoslavia. U.S. Ambassador Harriman was informed only after the bargain was struck. This gentleman's agreement was sealed with a handshake.
[sửa] Sau chiến tranh thế giới thứ hai
Although the importance of Churchill's role in World War II was undeniable, he had many enemies in his own country. His expressed contempt for a number of popular ideas, in particular public health care and better education for the majority of the population, produced much dissatisfaction amongst the population, particularly those who had fought in the war. Immediately following the close of the war in Europe, Churchill was heavily defeated in the 1945 election by Clement Attlee and the Labour Party. [7] Some historians think that many British voters believed that the man who had led the nation so well in war was not the best man to lead it in peace. Others see the election result as a reaction not against Churchill personally, but against the Conservative Party's record in the 1930s under Baldwin and Chamberlain.
Winston Churchill was an early supporter of the pan-Europeanism that eventually led to the formation of the European Common Market and later the European Union (for which one of the three main buildings of the European Parliament is named in his honour). Churchill was also instrumental in giving France a permanent seat on the United Nations Security Council (which provided another European power to counterbalance the Soviet Union's permanent seat). Churchill also occasionally made comments supportive of world government. For instance, he once said[2]:
- Unless some effective world supergovernment for the purpose of preventing war can be set up… the prospects for peace and human progress are dark… If… it is found possible to build a world organization of irresistible force and inviolable authority for the purpose of securing peace, there are no limits to the blessings which all men enjoy and share.
At the beginning of the Cold War, he famously popularised the term: the "Iron Curtain", which had been first used in the nineteenth century. The term entered the public consciousness after a 1946 speech at Westminster College in Fulton, Missouri, when Churchill, a guest of Harry S Truman, famously declared:
- From Stettin in the Baltic to Trieste in the Adriatic, an Iron Curtain has descended across the continent. Behind that line lie all the capitals of the ancient states of Central and Eastern Europe. Warsaw, Berlin, Prague, Vienna, Budapest, Belgrade, Bucharest and Sofia, all these famous cities and the populations around them lie in what I must call the Soviet sphere.
[sửa] Nhiệm kỳ thứ hai
Churchill was restless and bored as leader of the Conservative opposition in the immediate post-war years. After Labour's defeat in the General Election of 1951, Churchill again became Prime Minister. His third government — after the wartime national government and the short caretaker government of 1945 — would last until his resignation in 1955. During this period he renewed what he called the "special relationship" between Britain and the United States, and engaged himself in the formation of the post-war order.
His domestic priorities were, however, overshadowed by a series of foreign policy crises, which were partly the result of the continued decline of British military and imperial prestige and power. Being a strong proponent of Britain as an international power, Churchill would often meet such moments with direct action.
One of the crises he inherited was the nationalisation of the Anglo-Iranian Oil Company in Iran. Churchill's government was supportive of the overthrow of the Iranian government of Mohammed Mossadegh by Fazlollah Zahedi in response to this threat.
[sửa] Cuộc nổi loạn Mau Mau
In 1951, grievances against the colonial distribution of land came to a head with the Kenya Africa Union demanding greater representation and land reform. When these demands were rejected, more radical elements came forward, launching the Mau Mau rebellion in 1952. On 17 August 1952, a state of emergency was declared, and British troops were flown to Kenya to deal with the rebellion. As both sides increased the ferocity of their attacks, the country moved to full-scale civil war.
In 1953, the Lari massacre, perpetrated by Mau-Mau insurgents against Kikuyu loyal to the British, changed the political complexion of the rebellion and gave the public-relations advantage to the British. Churchill's strategy was to use a military stick combined with implementing many of the concessions that Attlee's government had blocked in 1951. He ordered an increased military presence and appointed General Sir George Erskine, who would implement Operation Anvil in 1954 that broke the back of the rebellion in the city of Nairobi. Operation Hammer, in turn, was designed to root out rebels in the countryside. Churchill ordered peace talks opened, but these collapsed shortly after his leaving office.
[sửa] Tình trạng khẩn cấp Mã lai
In Malaya, a rebellion against British rule had been in progress since 1948. Once again, Churchill's government inherited a crisis, and once again Churchill chose to use direct military action against those in rebellion while attempting to build an alliance with those who were not. He stepped up the implementation of a "hearts and minds" campaign and approved the creation of fortified villages, a tactic that would become a recurring part of Western military strategy in Southeast Asia. (See Vietnam War).
The Malayan Emergency was a more direct case of a guerrilla movement, centred in an ethnic group, but backed by the Soviet Union. As such, Britain's policy of direct confrontation and military victory had a great deal more support than in Iran or in Kenya. At the highpoint of the conflict, over 35,500 British troops were stationed in Malaya. As the rebellion lost ground, it began to lose favour with the local population.
While the rebellion was slowly being defeated, it was equally clear that colonial rule from Britain was no longer plausible. In 1953, plans were drawn up for independence for Singapore and the other crown colonies in the region. The first elections were held in 1955, just days before Churchill's own resignation, and in 1957, under Prime Minister Anthony Eden, Malaya became independent.
[sửa] Honours
From 1941 to his death, he was the Lord Warden of the Cinque Ports, a ceremonial office. In 1941 Canadian Prime Minister William Lyon Mackenzie King swore him into the Queen's Privy Council for Canada. Although this allowed him to use the honorific title "The Honourable" and the post-nominal letters "P.C." both of these were trumped by his membership in the Imperial Privy Council which allowed him the use of The Right Honourable.
In 1953 he was awarded two major honours: he was invested as a Knight of the Garter (becoming Sir Winston Churchill, KG) and he was awarded the Nobel Prize for Literature "for his mastery of historical and biographical description as well as for brilliant oratory in defending exalted human values".
A stroke in June of that year led to him being paralysed down his left side. He retired as Prime Minister on 5 April, 1955 because of his health but retained his post as Chancellor of the University of Bristol, and remained a member of parliament until 1964. In 1959 he became Father of the House, the MP with the longest continuous service.
In 1955, after retiring as Prime Minister, Churchill was offered elevation to the peerage in the rank of duke. He considered the offer, and even chose the name "Duke of London". However, he then declined the title after being persuaded by his son Randolph not to accept it. Since then, only British royals have been made dukes.
In 1956 Churchill received the Karlspreis (known in English as the Charlemagne Award), an award by the German city of Aachen to those who most contribute to the European idea and European peace.
In 1960, Churchill College, Cambridge was established as the national and Commonwealth memorial to Churchill.
In 1963, he became the first person to become an Honorary Citizen of the United States.
Churchill is the tenth most admired person in the 20th century, according to Gallup.
[sửa] Gia đình
On 12 September 1908 at the socially desirable St. Margaret's, Westminster, Churchill married Clementine Hozier, a dazzling but largely penniless beauty whom he met at a dinner party that March (he had proposed to actress Ethel Barrymore but was turned down). They had five children: Diana; Randolph; Sarah, who co-starred with Fred Astaire in Royal Wedding; Marigold, who died in early childhood; and Mary, who has written a book about her parents. Churchill's son Randolph and his grandsons Nicholas Soames and Winston all followed him into Parliament. The daughters tended to marry politicians and support their careers. Some of the siblings wrote serious books.
Clementine's mother was Lady Blanche Henrietta Ogilvy, second wife of Sir Henry Montague Hozier and a daughter of the 7th Earl of Airlie. Clementine's paternity, however, is open to debate. Lady Blanche was well known for sharing her favours and was eventually divorced as a result. She maintained that Clementine's father was Capt. William George "Bay" Middleton, a noted horseman. But Clementine's biographer Joan Hardwick has surmised, due to Sir Henry Hozier's reputed sterility, that all Lady Blanche's "Hozier" children were actually fathered by her sister's husband, Algernon Bertram Freeman-Mitford, better known as a grandfather of the infamous Mitford sisters of the 1920s.
When not in London on government business, Churchill usually lived at his beloved Chartwell House in Kent, two miles south of Westerham. He and his wife bought the house in 1922 and lived there until his death in 1965. During his Chartwell stays, he enjoyed writing as well as painting, bricklaying, and admiring the estate's famous black swans.
For much of his life, Churchill battled with depression, which he called his black dog.
[sửa] Những ngày cuối cùng
Aware that he was slowing down both physically and mentally, Churchill retired as Prime Minister in 1955 and was succeeded by Anthony Eden, who had long been his ambitious protégé. (Three years earlier, Eden had married Churchill's niece Anna Clarissa Churchill, his second marriage.) Churchill spent most of his retirement at Chartwell and in the south of France.
In 1963 U.S. President John F. Kennedy named Churchill the first Honorary Citizen of the United States. Churchill was too ill to attend the White House ceremony, so his son and grandson accepted the award for him.
On 15 January, 1965, Churchill suffered another stroke — a severe cerebral thrombosis — that left him gravely ill. He died nine days later on 24 January 1965, 70 years to the day after his father's death. By decree of the Queen, his body lay in State in Westminster Hall for three days and a state funeral service was held at St Paul's Cathedral. [8] This was the first state funeral for a non-royal family member since that of Field Marshal Lord Roberts of Kandahar in 1914.
As his coffin passed down the Thames on the Havengore, the cranes of London's docklands bowed in salute. The Royal Artillery fired a 19-gun salute (as head of government), and the RAF staged a fly-by of sixteen English Electric Lightning fighters. The state funeral was the largest gathering of dignitaries in Britain as representatives from over 100 countries attended, including French President Charles de Gaulle, Canadian Prime Minister Lester Pearson, Prime Minister of Rhodesia Ian Smith, other heads of state and government, and members of royalty. It also saw the largest assemblage of statesmen in the world until the funeral of Pope John Paul II in 2005.
It has been suggested it was Churchill's wish that, were de Gaulle to outlive him, his (Churchill's) funeral procession should pass through Waterloo Station. This is complete myth. Though President de Gaulle did attend the service and the coffin departed for Bladon from Waterloo Station, there is absolutely no connection. In fact, Churchill did not plan his own funeral as commonly believed; he made a few suggestions, but there was a private committee which made the plans, and he was not on it.
At Churchill's request, he was buried in the family plot at St Martin Church, Bladon, near Woodstock, not far from his birthplace at Blenheim.
Because the funeral took place on 30 January, people in the United States marked it by paying tribute to his friendship with Roosevelt because it was the anniversary of FDR's birth. The tributes were led by Roosevelt's children.
On 9 February, 1965, Churchill's estate was probated at 304,044 pounds sterling (equivalent to about £3.8m in 2004).
[sửa] Churchill với vai trò nhà sử học
Churchill was a prolific writer throughout his life and, during his periods out of office, attained recognition as a professional writer who was also a Member of Parliament. Despite his aristocratic birth, he inherited little money (his mother spent most of his inheritance) and always needed ready cash to maintain his lavish lifestyle and to compensate for a number of failed investments. Some of his historical works, such as A History of the English Speaking Peoples, were written primarily to raise money.
Although Churchill was an excellent writer, he was not trained as a historian. In his youth he was an avid reader of history but within a narrow range. The major influences on his historical thought, and his prose style, were Clarendon's history of the English Civil War, Gibbon's The History of the Decline and Fall of the Roman Empire and Macaulay's History of England. He had little interest in social or economic history; he saw history as essentially political and military, driven by great men rather than by economic forces or social change.
Churchill was one of the last (and most influential) exponents of "Whig history" — the belief of the 18th- and 19th-century Whigs that the British people had a unique greatness and an imperial destiny, and that all British history should be seen as progress towards fulfilling that destiny. This belief inspired his political career as well as his historical writing. It was criticized as an old-fashioned view of history even in Churchill's youth, but he never modified it or showed any interest in other schools of history. Although he employed professional historians as assistants, they had no influence over the content of his works.
Churchill's historical writings fall into three categories. The first is works of family history, the biographies of his father, Life of Lord Randolph Churchill (1906), and of his great ancestor, Marlborough: His Life and Times (four volumes, 1933–38). These are still regarded as fine biographies, but are marred by Churchill's desire to present his subjects in the best possible light. He made only limited use of the available source materials and, in the case of his father, suppressed some material from family archives that reflected badly on Lord Randolph. The Marlborough biography shows to the full Churchill's great talent for military history. Both books have been superseded by more scholarly works but are still highly readable.
The second category is Churchill's autobiographical works, including his early journalistic compilations The Story of the Malakand Field Force (1898), The River War (1899), London to Ladysmith via Pretoria (1900) and Ian Hamilton's March (1900). These latter two were issued in a re-edited form as My Early Life (1930). All these books are colourful and entertaining, and contain some valuable information about Britain's imperial wars in India, Sudan and South Africa, but they are essentially exercises in self-promotion, since Churchill was already a Parliamentary candidate in 1900.
Churchill's reputation as a writer, however, rests on the third category, his three massive multi-volume works of narrative history. These are his histories of the First World War — The World Crisis (six volumes, 1923–31) — and of The Second World War (six volumes, 1948–53), and his History of the English-Speaking Peoples (four volumes, 1956–58, much of which had been written in the 1930s). These are among the longest works of history ever published (The Second World War runs to more than two million words), and earned him the Nobel Prize for Literature.
Churchill's histories of the two world wars are, of course, far from being conventional historical works, since the author was a central participant in both stories and took full advantage of that fact in writing his books. Both are in a sense, therefore, memoirs as well as histories, but Churchill was careful to broaden their scope to include events in which he played no part — the war between Nazi Germany and the Soviet Union, for example. Inevitably, however, Churchill placed Britain, and therefore himself, at the centre of his narrative. Arthur Balfour described The World Crisis as "Winston's brilliant autobiography, disguised as a history of the universe."
As a Cabinet minister for part of the First World War and as Prime Minister for nearly all of the Second, Churchill had unique access to official documents, military plans, official secrets and correspondence between world leaders. After the First War, when there were few rules governing these documents, Churchill simply took many of them with him when he left office and used them freely in his books — as did other wartime politicians such as David Lloyd George. As a result of this, strict rules were put in place preventing Cabinet ministers using official documents for writing history or memoirs once they left office.
The World Crisis was inspired by Lord Esher's attack on Churchill's reputation in his memoirs. It soon broadened out into a general multi-volume history. The volumes are a mix of military history, written with Churchill's usual narrative flair; diplomatic and political history, often written to justify Churchill's own actions and policies during the war; portraits of other political and military figures, sometimes written to further political vendettas or settle debts (most notably with Lloyd George); and personal memoir, written in a colourful but highly selective manner. Today these books are not in favour as historical references. As with all Churchill's works, they have little to say about economic or social history, and are coloured by his political views — particularly in regard to the Russian Revolution. But they remain highly readable for their narrative skill and vivid portrayals of people and events.
When he resumed office in 1939, Churchill fully intended writing a history of the war then beginning. He said several times: "I will leave judgements on this matter to history — but I will be one of the historians." To circumvent the rules against the use of official documents, he took the precaution throughout the war of having a weekly summary of correspondence, minutes, memoranda and other documents printed in galleys and headed "Prime Minister's personal minutes". These were then stored at his home for future use. As well, Churchill wrote or dictated a number of letters and memorandums with the specific intention of placing his views on the record for later use as a historian.
This all became a source of great controversy when The Second World War began appearing in 1948. Churchill was not an academic historian, he was a politician, and was in fact Leader of the Opposition, still intending to return to office. By what right, it was asked, did he have access to Cabinet, military and diplomatic records which were denied to other historians?
What was unknown at the time was the fact that Churchill had done a deal with the Attlee Labour government which came to office in 1945. Recognising Churchill's enormous prestige, Attlee agreed to allow him (or rather his research assistants) free access to most documents, provided that (a) no official secrets were revealed, (b) the documents were not used for party political purposes, and (c) the typescript was vetted by the Cabinet Secretary, Sir Norman Brook. Brook took a close interest in the books and rewrote some sections himself to ensure that nothing was said which might harm British interests or embarrass the government. Churchill's history thus became a semi-official one.
Churchill's privileged access to documents and his unrivalled personal knowledge gave him an advantage over all other historians of the Second World War for many years. The books had enormous sales in both Britain and the United States and made Churchill a rich man for the first time. It was not until after his death and the opening of the archives that some of the deficiencies of his work became apparent.
Some of these were inherent in the unique position Churchill occupied as a historian, being both a former Prime Minister and a serving politician. He could not reveal military secrets, such as the work of the code-breakers at Bletchley Park (see Ultra) or the planning of the atomic bomb. He could not discuss wartime disputes with figures such as Dwight Eisenhower, Charles de Gaulle or Tito, since they were still world leaders at the time he was writing. He could not discuss Cabinet disputes with Labour leaders such as Attlee, whose goodwill the project depended on. He could not reflect on the deficiencies of generals such as Archibald Wavell or Claude Auchinleck for fear they might sue him (some, indeed, threatened to do so).
Other deficiencies were of Churchill's own making. Although he described the fighting on the Eastern Front, he had little real interest in it and no access to Soviet or German documents, so his account is a pastiche of secondary sources, largely written by his assistants. The same is true to some extent of the war in the Pacific except for episodes such as the fall of Singapore in which he was involved. His account of the U.S. naval war in the Pacific was so heavily based on other writers that he was accused of plagiarism.
The real focus of Churchill's work is always on the war in Western Europe, the Mediterranean and North Africa, but here his work is based heavily on his own documents, so it greatly exaggerates his own role. He had little access to American documents, and even those he did have, such as his letters from Roosevelt, Truman and Eisenhower, had to be used with caution for diplomatic reasons. Although he was, of course, a central figure in the war, he was not as central as his books suggest. Although he is usually fair, some personal vendettas are aired — against Stafford Cripps, for example.
The Second World War can still be read with great profit by students of the period, provided it is seen mainly as a memoir by a leading participant rather than as an authoritative history by a detached historian. The war, and particularly the period between 1940 and 1942 when Britain was fighting alone, was the climax of Churchill's career, and his personal account of the inside story of those days is unique and invaluable. But, since the archives have been opened, far more accurate and reliable histories have emerged.
Churchill's History of the English-Speaking Peoples was commissioned and largely written in the 1930s when Churchill badly needed money, but it was put aside when war broke out in 1939, being finally issued after he left office for the last time in 1955. Although it contains much fine writing, it shows Churchill's deficiencies as a historian at their most glaring. It is generally regarded as tendentious and very old-fashioned, seeing world history as a one-dimensional pageant of battles and speeches, kings and statesmen, in which the English occupy central stage. Events viewed by today's historians as being of central importance, such as the industrial revolution, are scarcely mentioned. Although Churchill's enormous prestige ensured that the books were respectfully received and sold well, they are little read today.
[sửa] Nội các thời chiến của Churchill, tháng 5, 1940–tháng 5, 1945
- Winston Churchill — Thủ tướng, Bộ trưởng quốc phòng và Chủ tịch Hạ viện.
- Neville Chamberlain — Chủ tịch hội đồng
- Clement Attlee — Lord Privy Seal và Phó chủ tịch thường trực Hạ viện.
- Lord Halifax — Bộ trưởng ngoại giao
- Arthur Greenwood — Bộ trưởng không bộ
[sửa] Những thay đổi
- August 1940: Lord Beaverbrook (a Canadian-British citizen), Minister of Aircraft Production, joins the War Cabinet
- October 1940: Sir John Anderson succeeds Neville Chamberlain as Lord President. Sir Kingsley Wood, the Chancellor of the Exchequer, and Ernest Bevin, the Minister of Labour, enter the War Cabinet. Lord Halifax assumes the additional job of Leader of the House of Lords.
- December 1940: Anthony Eden succeeds Lord Halifax as Foreign Secretary. Halifax remains nominally in the Cabinet as Ambassador to the United States. His successor as Leader of the House of Lords is not in the War Cabinet.
- May 1941: Lord Beaverbrook ceased to be Minister of Aircraft Production, but remains in the Cabinet as Minister of State. His successor was not in the War Cabinet.
- June 1941: Lord Beaverbrook becomes Minister of Supply, remaining in the War Cabinet.
- 1941: Oliver Lyttelton enters the Cabinet as Minister Resident in the Middle East.
- 4 February 1942: Lord Beaverbrook becomes Minister of War Production, his successor as Minister of Supply is not in the War Cabinet.
- 19 February 1942: Beaverbrook resigns and no replacement Minister of War Production is appointed for the moment. Clement Attlee becomes Secretary of State for Dominion Affairs and Deputy Prime Minister. Sir Stafford Cripps succeeds Attlee as Lord Privy Seal and takes over the position of Leader of the House of Commons from Churchill. Sir Kingsley Wood leaves the War Cabinet, though remaining Chancellor of the Exchequer.
- 22 February 1942: Arthur Greenwood resigns from the War Cabinet.
- March 1942: Oliver Lyttelton fills the vacant position of Minister of Production ("War" was dropped from the title). Richard Gardiner Casey (a member of the Australian Parliament) succeeds Oliver Lyttelton as Minister Resident in the Middle East.
- October 1942: Sir Stafford Cripps retires as Lord Privy Seal and Leader of the House of Commons and leaves the War Cabinet. His successor as Lord Privy Seal is not in the Cabinet, Anthony Eden takes the additional position of Leader of the House of Commons. The Home Secretary, Herbert Morrison, enters the Cabinet.
- September 1943: Sir John Anderson succeeds Sir Kingsley Wood (deceased) as Chancellor of the Exchequer, remaining in the War Cabinet. Clement Attlee succeeds Anderson as Lord President, remaining also Deputy Prime Minister. Attlee's successor as Dominions Secretary is not in the Cabinet.
- November 1943: Lord Woolton enters the Cabinet as Minister of Reconstruction.
[sửa] Winston Churchill's caretaker cabinet, May–July 1945
- Winston Churchill — Prime Minister and Minister of Defence
- Lord Woolton – Lord President of the Council
- Lord Beaverbrook — Lord Privy Seal
- Sir John Anderson — Chancellor of the Exchequer
- Sir Donald Bradley Somervell — Secretary of State for the Home Department
- Anthony Eden — Secretary of State for Foreign Affairs and Leader of the House of Commons
- Oliver Stanley — Secretary of State for the Colonies
- Lord Cranborne — Secretary of State for Dominion Affairs and Leader of the House of Lords
- Sir P.J. Grigg — Secretary of State for War
- Leo Amery — Secretary of State for India and Burma
- Lord Rosebery — Secretary of State for Scotland
- Harold Macmillan — Secretary of State for Air
- Brendan Bracken — First Lord of the Admiralty
- Oliver Lyttelton — President of the Board of Trade and Minister of Production
- Robert Hudson — Minister of Agriculture
- Rab Butler — Minister of Labour
[sửa] Winston Churchill's third cabinet, October 1951–April 1955
- Winston Churchill — Prime Minister and Minister of Defence
- Lord Simonds — Lord Chancellor
- Lord Woolton — Lord President of the Council
- Lord Salisbury — Lord Privy Seal and Leader of the House of Lords
- Rab Butler — Chancellor of the Exchequer
- Sir David Maxwell-Fyfe — Secretary of State for the Home Department
- Anthony Eden — Secretary of State for Foreign Affairs
- Oliver Lyttelton — Secretary of State for the Colonies
- Lord Ismay — Secretary of State for Commonwealth Relations
- James Stuart — Secretary of State for Scotland
- Peter Thorneycroft — President of the Board of Trade
- Lord Cherwell — Paymaster-General
- Sir Walter Monckton — Minister of Labour
- Harry Crookshank — Minister of Health and Leader of the House of Commons
- Harold Macmillan — Minister of Housing and Local Government
- Lord Leathers — Minister for the Co-ordination of Transport, Fuel, and Power
[sửa] Những thay đổi
- March 1952: Lord Salisbury succeeds Lord Ismay as Commonwealth Relations Secretary. Salisbury remains also Lord Privy Seal and Leader of the House of Lords. Lord Alexander of Tunis succeeds Churchill as Minister of Defence.
- May 1952: Harry Crookshank succeeds Lord Salisbury as Lord Privy Seal, remaining Leader of the House of Commons. Salisbury remains Commonwealth Relations Secretary and Leader of the House of Lords. Crookshank's successor as Minister of Health is not in the Cabinet.
- November 1952: Lord Woolton becomes Chancellor of the Duchy of Lancaster. Lord Salisbury succeeds Lord Woolton as Lord President. Lord Swinton succeeds Lord Salisbury as Commonwealth Relations Secretary.
- September 1953: Florence Horsbrugh, the Minister of Education, Sir Thomas Dugdale, the Minister of Agriculture, and Gwilym Lloyd George, the Minister of Food, enter the cabinet. The Ministry for the Co-ordination of Transport, Fuel, and Power, is abolished, and Lord Leathers leaves the Cabinet.
- October 1953: Lord Cherwell resigns as Paymaster General. His successor is not in the Cabinet.
- July 1954: Alan Lennox-Boyd succeeds Oliver Lyttelton as Colonial Secretary. Derick Heathcoat Amory succeeds Sir Thomas Dugdale as Minister of Agriculture.
- October 1954: Sir David Maxwell-Fyfe, now Lord Kilmuir, succeeds Lord Simonds as Lord Chancellor. Gwilym Lloyd George succeeds him as Home Secretary. The Food Ministry is merged into the Ministry of Agriculture. Sir David Eccles succeeds Florence Horsbrugh as Minister of Education. Harold Macmillan succeeds Lord Alexander of Tunis as Minister of Defence. Duncan Sandys succeeds Macmillan as Minister of Housing and Local Government. Osbert Peake, the Minister of Pensions and National Insurance, enters the Cabinet.
[sửa] Ghi chú và tham khảo
- ▲ Picknett, Lynn, Prince, Clive, Prior, Stephen & Brydon, Robert (2002). War of the Windsors: A Century of Unconstitutional Monarchy, p. 78. Mainstream Publishing. ISBN 1-84018-631-3.
- ▲ Picknett, et al., p. 75.
- ▲ Picknett, et al., pp. 149–150.
- ▲ Picknett, et al., p. 147.
- ▲ Picknett, et al., pp. 156–158.
- ▲ Michael R. Beschloss, (2002) The Conquerors: Roosevelt, Truman and the Destruction of Hitler's Germany, 1941-1945 pg. 131. Simon & Schuster ISBN 0-7432-4454-0.
- ▲ Picknett, et al., p. 190.
- ▲ Picknett, et al., p. 252.
[sửa] Các tham khảo khác
- Dreadnought: Britain, Germany and the Coming of the Great War by Robert Massie (ISBN 1844135284); deals with forty years of European politics by reference to the naval arms race between Britain and Germany. Contains chapters on Churchill's early life (chapter 40: "I Do Believe That I Am a Glowworm") and period as First Lord of the Admiralty (chapter 41: Churchill at the Admiralty).
- Churchill: A Life by Martin Gilbert (ISBN 0-8050-2396-8)
- Winston Churchill by Henry Pelling, (first issue) 1974, (Wordsworth Military Library Edition) 1999 (ISBN 1-84022-218-2),
- Winston Churchill by Sebastian Haffner, Reinbek 1967, Germany.
- Churchill and De Gaulle by François Kersaudy, London : Collins, 1981 ISBN 0002163284.
- Churchill: Man of the Century by Christian Krockow, London: Sutton Pub Ltd, 2000 ISBN 1902809432.
- Churchill : Visionary, Statesman, Historian by John Lukacs New Haven, Conn.: Yale University Press, 2002.
- Quotations database, World Beyond Borders.
- The Oxford Dictionary of 20th Century Quotations by Oxford University Press (ISBN 0-19-860103-4)
- The Last Lion: Winston Spencer Churchill, Visions of Glory 1874-1932, 1983, Little, Brown (Vol. I) by William Manchester, ISBN 0316545031
- The Last Lion: Winston Spencer Churchill, Alone 1932-1940, 1988, Little, Brown (Vol. II) by William Manchester, ISBN 0316545120
- Volume III remains unfinished as of August 2005
[sửa] Liên kết ngoài
Tiêu bản:Spoken Wikipedia-3
- Tác phẩm của Winston Churchill tại Dự án Gutenberg
- Churchill World History Database
- The Churchill Centre website
- Churchill Video Speech, We Stood Alone
- Rethinking Churchill, Parts 1 to 5
- Winston Churchill in Cuba
- Opinion piece on Churchill's significance in history.
- Another bio of him including extended quotations from his speeches
- Churchill and the Great Republic. Exhibition explores Churchill's lifelong relationship with the United States.
- Churchill and Zionism (by Dr. Yoav Tenenbaum, Tel Aviv University)
- Churchill Quotations (240 Quotations)
- Prominent People - Sir Winston Churchill
- Ron Schuler's Parlour Tricks: Churchill
- Winston Churchill and the Bombing of Dresden UK National Archives documents.
[sửa] Những bài diễn văn
- http://www.churchill-speeches.com/
- Audio of Churchill's "finest hour" speech
- Many speeches by Churchill
1951: Lagerkvist | 1952: Mauriac | 1953: Churchill | 1954: Hemingway | 1955: Laxness | 1956: Jiménez | 1957: Camus | 1958: Pasternak | 1959: Quasimodo | 1960: Perse | 1961: Andrić | 1962: Steinbeck | 1963: Seferis | 1964: Sartre | 1965: Sholokhov | 1966: Agnon, Sachs | 1967: Asturias | 1968: Kawabata | 1969: Beckett | 1970: Solzhenitsyn | 1971: Neruda | 1972: Böll | 1973: White | 1974: Johnson, Martinson | 1975: Montale |