Kháng chiến chống Nguyên Mông
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Kháng chiến chống Nguyên Mông là cuộc chiến tranh chống xâm lược nhà Nguyên (Trung Quốc) của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Kháng chiến chống Nguyên Mông diễn ra chính thức ba lần trong các năm 1258, 1285 và 1287-1288 nhưng trước và sau các cuộc chiến đã có những hoạt động ngoại giao giữa hai bên.
Kháng chiến chống Nguyên Mông được xem là một trong những trang sử hào hùng nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của Việt Nam và gắn liền với nó là tên tuổi của các tướng lĩnh nhà Trần và chính 3 vua nhà Trần là Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông.
Mục lục |
[sửa] Bối cảnh
Năm 1226, dưới sự sắp đặt của Trần Thủ Độ, nữ hoàng nhà Lý là Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh, tức là vua Trần Thái Tông. Nhà Trần chính thức thay nhà Lý.
Sau khi chính thức nắm quyền cai trị, nhà Trần ra sức củng cố nội chính và chấm dứt nạn cát cứ từ cuối thời Lý. Tới năm 1229, sau khi Nguyễn Nộn ốm chết, các lực lượng chống đối cơ bản bị dẹp.
Trong khi đó ở phương bắc, Trung Quốc từ lâu đã bị chia cắt. Nhà Tống phải rút xuống phía nam trước sự xâm lấn của nước Kim - người Nữ Chân. Phía tây bị nước Tây Hạ chia cắt. Tới đầu thế kỷ 13, người Mông Cổ ở phía bắc nước Kim thống nhất dưới quyền Thành Cát Tư Hãn, trở nên lớn mạnh. Mông Cổ đánh xuống phía nam, tiêu diệt Tây Hạ (1227) và Kim (1234). Mặc dù đã mở rộng bờ cõi bao la sang phía tây, diệt nhiều nước Tây Á và đánh sang châu Âu, Mông Cổ tiếp tục tiến xuống phía nam để diệt nốt Nam Tống.
Năm 1254, quân Mông Cổ đánh chiếm nước Đại Lý (Vân Nam ngày nay), muốn đánh chiếm Đại Việt để tạo thế bao vây Nam Tống.
[sửa] Lần thứ nhất 1258
Tháng 8 năm Đinh Tỵ 1257, chủ trại Quy Hóa là Hà Khuất sai người báo tin có sứ Mông Cổ sang. Tháng 9, Trần Thái Tông xuống chiếu lệnh tả hữu tướng quân đem quân thủy bộ ra ngăn giữ biên giới, theo sự tiết chế của Trần Quốc Tuấn. Tháng 11, vua lệnh truyền cả nước sắm sửa vũ khí.
Ngày 12 tháng 12, tướng Mông Cổ là Ngột Lương Hợp Thai (Uriyangqadai hay 兀良合台) mang quân tiến vào xâm phạm Bình Lệ Nguyên thuộc nước Đại Việt. Vua Thái Tông thân hành đốc chiến, xông pha tên đạn. Quân Trần hơi núng, vua ngoảnh trông tả hữu, chỉ có Lê Tần (tức Lê Phụ Trần) một mình một ngựa xông pha bình thản như không. Có người khuyên vua dừng lại để chỉ huy chiến đấu. Tần cố sức can rằng: "Nay thì bệ hạ chỉ đánh một ván dốc túi thôi! Hãy nên tạm lánh chúng, sao lại có thể dễ dàng tin lời người ta thế!"
Vua Thái Tông mới lui quân đóng ở sông Lô. Lê Tần giữ phía sau. Quân Mông Cổ bắn loạn xạ, Tần lấy ván thuyền che cho vua khỏi trúng tên giặc. Thế giặc rất mạnh, quân Trần lại phải lui giữ sông Thiên Mạc. Lê Tần theo vua bàn những việc cơ mật, rất ít người biết được đều đó.
Vua đến hỏi ý thái sư Trần Thủ Độ về việc đánh địch, Thủ Độ trả lời: "Đầu thần chưa rơi xuống đất, bệ hạ đừng lo gì khác."
Ngày 24 tháng chạp (đầu năm 1258 dương lịch), vua Thái Tông và thái tử Thuyên (Trần Thánh Tông sau này) ngự lâu thuyền, tiến quân đến Đông Bộ Đầu, đón đánh, cản phá được quân giặc. Quân Mông Cổ thua chạy chạy trốn về, đến trại Quy Hóa, chủ trại là Hà Bổng chiêu tập người địa phương (sử gọi là người Man) ra tập kích, lại cả phá được quân Mông một trận nữa.
Quân Mông Cổ bỏ chạy dọc đường không hề cướp bóc của dân, nên người ta gọi là "giặc Phật". Giặc rút, vua Thái Tông ban cho Hà Bổng tước hầu. Lê Tần có công phò vua lúc nguy cấp nên được ban cho tên là Lê Phụ Trần và được gả hoàng hậu cũ là Chiêu Thánh (tức Lý Chiêu Hoàng).
[sửa] Lần thứ hai 1285
[sửa] Hội nghị Bình Than, hội nghị Diên Hồng
Tháng 11 năm nhâm Ngọ, (1282), hữu thừa tướng nhà Nguyên là Toa Đô (Sogatu) đem 5000 quân đi đường thủy từ Quảng Châu đánh Chiêm Thành, định từ đó đánh thốc lên Đại Việt từ phía nam.
Tháng 10, vua Trần Nhân Tông ra Bình Than đóng ở vũng Trần Xá, họp vương hầu và trăm quan, bàn kế công thủ và chia nhau đóng giữ những nơi hiểm yếu. Thánh Tông lấy Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư làm phó đô tướng quân, thái úy Trần Quang Khải làm thượng tướng thái sư. Khi ấy, Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản, còn trẻ tuổi, không cho dự bàn. Quốc Toản trong lòng hổ thẹn, phẫn khích, tay cầm quả cam, bóp nát lúc nào không biết. Sau đó Quốc Toản lui về, huy động hơn nghìn gia nô và thân thuộc, sắm vũ khí, đóng chiến thuyền, viết lên cờ 6 chữ: "Phá cường địch, báo hoàng ân" (tức là "phá giặc mạnh, báo ơn vua") và tham gia đánh trận, lập được nhiều chiến công.
Tháng 7 năm Quý Mùi (1283), vua Trần sai trung phẩm Hoàng Ư Lệnh, nội thư gia Nguyễn Chương sang Nguyên, gặp thái tử A Thai, bình chương A Lạt (hay A Lý Hải Nha tức Ariq-Qaya), ở Hồ Quảng, hội 50 vạn quân ở các xứ định sang năm vào đánh Đại Việt.
Tháng 10 năm 1283, vua Nhân Tông thân hành dẫn các vương hầu điều quân thủy bộ tập trận. Tiến phong Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn làm Quốc công tiết chế, thống lĩnh quân đội toàn quốc, sai chọn các quân hiệu có tài chỉ huy, chia đi nắm giữ các đơn vị.
Tháng 8 năm Giáp Thân (1284), Hưng Đạo Vương điều các quân của vương hầu, duyệt binh lớn ở Đông Bộ Đầu, chia các quân đóng giữ Bình Than và những nơi xung yếu khác. Tháng 11, Thánh Tông sai Trần Phủ sang hành tỉnh Kinh Hồ (nước Nguyên) xin hoãn binh.
Tháng 12, Trần Phủ từ Nguyên trở về, tâu rằng vua Nguyên sai bọn Trấn Nam Vương Thoát Hoan (Toghan), bình chương A Lạt đem quân lấy cớ mượn đường đi đánh Chiêm Thành, chia đường vào cướp. Thượng hoàng Trần Thánh Tông triệu phụ lão trong nước họp ở thềm điện Diên Hồng, ban yến và hỏi kế đánh giặc. Các phụ lão điều nói "Đánh!"
[sửa] Thoát Hoan, Toa Đô tiến binh
Ngày 26, quân Nguyên đánh vào các ải Vĩnh Châu, Nội Bàng, Thiết Lược, Chi Lăng. Quân Trần đánh địch không nổi, lui về đóng ở bến Vạn Kiếp. Hưng Đạo Vương vâng mệnh điều quân dân các lộ Hải Đông, Vân Trà, Ba Điểm, chọn những người dũng cảm làm tiền phong, vượt biển vào Nam, thế quân lên dần. Hưng Vũ Vương Nghiễn, Minh Hiến Vương Uất, Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng, Hưng Trí Vương Hiện đốc suất 20 vạn quân các xứ Bàng Hà, Na Sầm, Trà Hương, Yên Sinh, Long Nhãn đến hội ở Vạn Kiếp, theo quyền điều khiển của Hung Đạo Vương để chống quân Nguyên. Hưng Đạo Vương chia quân đón giữ ở Bắc Giang.
Ngày mồng 6 tháng giêng năm 1285, tướng Nguyên là Ô Mã Nhi đánh vào các xứ Vạn Kiếp và núi Phả Lại, quân Trần thua trận. Ngày 12, quân Nguyên đánh vào Gia Lâm, Vũ Ninh, Đông Ngàn, bắt được quân Đại Việt, thấy người nào cũng thích hai chữ "Sát Thát" bằng mực vào cánh tay, tức lắm, giết hại rất nhiều. Quân Nguyên đến Đông Bộ Đầu. Ngày 13, quân Trần lại giao tranh với quân Nguyên. Ngày 28, Hưng Đạo Vương bàn xin Trần Quang Khải chặn đánh cánh quân của Toa Đô ở Nghệ An.
Mồng 1 tháng 2, con thứ của Tĩnh Quốc Đại Vương Trần Quốc Khang là thượng vị Chương Hiến hầu Trần Kiện và liêu thuộc là Lê Trắc đem theo quân đầu hàng quân Nguyên. Toa Đô sai đưa bọn Kiện về Yên Kinh. Thổ hào Lạng Giang là Nguyễn Thế Lộc, Nguyễn Lĩnh, tập kích quân Nguyên ở trại Ma Lục. Gia nô của Hưng Đạo Vương là Nguyễn Địa Lô bắn chết Kiện. Trắc đưa xác Kiện lên ngựa, trốn đi đêm, chạy được vài chục dặm, tới Khâu Ôn chôn Kiện tại đó. Thượng hoàng Thánh Tông sai người đưa công chúa An Tư (em gái út của Thánh Tông) đến cho Thoát Hoan để lung lạc và tranh thủ thêm thời gian đối phó với địch.
Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng[1] đánh nhau với quân Nguyên ở bãi Đà Mạc (nay là bãi Mạn Trù) bị bắt. Quân Nguyên hỏi ông: "Có muốn làm vương đất Bắc không?" Ông thét to: "Ta thà làm ma nước Nam chứ không thèm làm vương đất bắc", rồi bị giết.
Thế quân Nguyên rất mạnh, hai vua phải đi thuyền nhỏ đến Tam Trĩ Nguyên, sai người đưa thuyền ngự ra Ngọc Sơn để đánh lừa giặc.
Ngày mồng 1 tháng 3, hai vua Thánh Tông và Nhân Tông bỏ thuyền đi bộ đến Thuỷ Chú. Lấy thuyền ra sông Nam Triệu (tức huyện Thuỷ Đường) vượt biển Đại Bàng (cửa Văn Úc ngày nay) vào Thanh Hóa. Thượng vị Văn Chiêu hầu Trần Lộng đầu hàng Thoát Hoan. Kế đó, Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc và bọn Phạm Cự Địa, Lê Diễn, Trịnh Long đem gia thuộc đầu hàng quân Nguyên. Nguyên soái Toa Đô đem quân đến Chiêm Thành, hội với quân Nguyên ở châu Ô Lý (Quảng Trị ngày nay) rồi cướp châu Hoan, châu Ái (Thanh Hóa - Nghệ An), tiến đóng ở Tây Kết (khoảng thôn Đông Kết, xã Đông Bình, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên ngày nay).
[sửa] Quân Trần phản công
Tháng 4, vua Nhân Tông sai Chiêu Thành Vương, Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản, Nguyễn Khoái đem tiệp binh đón đánh quân Nguyên ở bến Tây Kết. Quân Trần do Trần Nhật Duật chỉ huy giao chiến đánh thắng quân Nguyên ở Hàm Tử Quan (nay là xã Hàm Tử huyện Văn Giang, Hưng Yên).
Các quân đều hội đủ. Ngày mồng 3 tháng 5, hai vua Trần đánh bại quân Nguyên ở phủ Trường Yên. Ngày mồng 7, Toa Đô từ Thanh Hoá tới. Ngày mồng 10, Trần Quang Khải, Trần Quốc Toản, Trần Thông, Nguyễn Khả Lạp, Nguyễn Truyền đem dân binh các lộ đánh bại quân giặc ở các xứ Kinh Thành, Chương Dương. Quân Nguyên tan vỡ, rút chạy qua sông Lô. Ngày 17, Toa Đô và Ô Mã Nhi lại từ biển đánh vào sông Thiên Mạc, muốn hội quân ở kinh sư, để chi viện cho nhau. Du binh Nguyên đến huyện Phù Ninh, viên phụ đạo huyện ấy là Hà Đặc cùng em là Hà Chương đã lập mưu đánh bại.
Ngày 20, hai vua Trần tiến đóng ở Đại Mang Bộ. Tổng quản quân Nguyên là Trương Hiển đầu hàng. Hôm đó, quân Đại Việt đánh bại quân Nguyên ở Tây Kết, giết và làm bị thương rất nhiều, chém đầu Toa Đô. Nửa đêm Ô Mã Nhi trốn qua cửa sông Thanh Hoá, hai vua đuổi theo nhưng không kịp, bắt được hơn 5 vạn quân Nguyên đem về, Ô Mã Nhi chỉ còn một chiếc thuyền vượt biển trốn thoát.
Hưng Đạo Vương lại đánh bại quân Thoát Hoan và Lý Hằng ở Vạn Kiếp, quân Nguyên chết đuối rất nhiều. Lý Hằng đem quân hộ vệ Thoát Hoan chạy về Tư Minh. Quân Đại Việt lấy tên tẩm thuốc độc bắn trúng đầu gối bên trái của Hằng, Hằng chết. Tỳ tướng Lý Quán thu nhặt 5 vạn quân còn lại, giấu Thoát Hoan vào một ống đồng, chạy trốn về bắc. Đến Tư Minh, Hưng Vũ Vương đuổi kịp, dùng tên tẩm thuốc độc bắn trúng Lý Quán, Quán chết. Quân Nguyên tan vỡ.
Tháng 6, ngày mồng 6, hai vua Trần trở về kinh sư, thượng tướng Trần Quang Khải làm thơ rằng:
|
|
[sửa] Lần thứ ba 1287-1288
[sửa] Trận Vân Đồn
Tháng 3 năm 1286 vua Nguyên sắc phong cho thượng thư tỉnh Áo Lỗ Xích, bình chương sự Ô Mã Nhi, đại tướng Trương Văn Hổ điều 50 vạn quân, hạ lệnh Hồ Quảng đóng 300 chiếc thuyền biển, hẹn tháng 8 hội cả ở Khâm Châu, Liêm Châu. Lại ra lệnh quân ba hành tỉnh Giang Chiết, Hồ Quảng, Giang Tây xâm lược phương nam, mượn cớ đưa Trần Ích Tắc về nước lập làm An Nam Quốc Vương.
Tháng 6, nhà Trần lệnh cho vương hầu, tôn thất mộ binh, thống lĩnh thuộc hạ của mình. Vua Nhân Tông hỏi Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn: "Thế giặc năm nay thế nào?" Quốc Tuấn trả lời: "Nước ta thái bình lâu ngày, dân không biết việc binh. Cho nên, năm trước quân Nguyên vào cướp, thì có kẻ đầu hàng chốn chạy. Nhờ uy tín của tổ tông và thần võ của bệ hạ, nên quét sạch được bụi Hồ. Nay nếu nó lại sang thì quân ta đã quen việc chiến trận, mà quân nó thì sợ phải đi xa. Vả lại, chúng còn nơm lớp cái thất bại của Hằng, Quán không còn chí chiến đấu. Theo như thần thấy, phá được chúng là điều chắc chắn."
Tháng 2 năm 1287, nhà Nguyên phát quân Mông Cổ, quân Hán Nam, 3 hành tỉnh Giang Hoài, Giang Tây, Hồ Quảng, lính Vân Nam, lính người Lê ở 4 châu ngoài biển, chia đường vào cướp. Sai vạn hộ Trương Văn Hổ đi đường biển, chở 70 vạn thạch lương theo sau. Lại đặt chinh Giao Chỉ hành thượng thư tỉnh do bình chương sự Áo Lỗ Xích (Auruyvci), các tham tri chính sự Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp thống lĩnh và chịu tiết chế của Trấn Nam Vương.
Vua Nhân Tông hỏi Hưng Đạo Vương: "Giặc tới, liệu tình hình thế nào?" Ông trả lời: "Năm nay đánh giặc nhàn."
Ngày 24, lệnh cho cấm quân giữ ải Lãnh Kinh. Hưng Đức hầu Quán đem quân đón đánh, dùng tên tẩm thuốc độc bắn giặc chết và bị thương rất nhiều. Quân Nguyên lui về đóng ở ải Vũ Cao. Ngày 28, phán thủ thượng vị Nhân Đức hầu Toàn đem thuỷ quân đánh ở vụng Đa Mỗ, quân Nguyên chết đuối rất nhiều, bắt sống 40 tên và thu được thuyền ngựa, khí giới đem dâng.
Ngày 16 tháng 12, vua Nhân Tông chiếu sai minh tự Nguyễn Thức đem quân Thánh dực dũng nghĩa đến chỗ Hưng Đạo Vương để giữ cửa Đại Than. Ngày 26, quân Đại Việt giao chiến đánh bại quân Nguyên. Ngày 30, Thoát Hoan cùng Ô Mã Nhi hợp 30 vạn quân đánh vào Vạn Kiếp rối thuận dòng xuôi về phía đông. Thủy quân Nguyên đánh vào Vân Đồn, Hưng Đạo Vương giao hết công việc biên thùy cho phó tướng Vân Đồn là Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư. Khánh Dư thất bại, thượng hoàng Thánh Tông được tin, sai trung sứ xiềng Khánh Dư giải về kinh. Khánh Dư xin khất hai, ba ngày, để mưu lập công. Khánh Dư liệu biết thủy quân Nguyên đã qua, thuyền vận tải tất theo sau, nên thu thập tàn binh đợi. Chẳng bao lâu thuyền vận tải của Trương Văn Hổ quả nhiên đến, Khánh Dư phục binh đánh tan, bắt được quân lương khí giới, tù binh rất nhiều. Thượng hoàng Thánh Tông được tin bèn tha cho tội trước. Vua Trần tha những tên bị bắt về doanh trại quân Nguyên để báo tin. Quân Nguyên sau này phải rút lui rất nhanh.
[sửa] Trận Bạch Đằng
Tháng giêng năm 1288, Ô Mã Nhi đánh vào phủ Long Hưng. Ngày 8, quân Trần hội chiến ngoài biển Đại Bàng, bắt được 300 chiếc thuyền địch, 10 thủ cấp, quân Nguyên bị chết đuối rất nhiều.
Ngày 29 tháng 2, Ô Mã Nhi đánh vào trại Yên Hưng. Ngày 8 tháng 3, quân Nguyên hội ở sông Bạch Đằng để đón thuyền lương của bọn Trương Văn Hổ nhưng không gặp bị Hưng Đạo Vương đánh bại. Trước đó, ông đã đóng cọc ở sông Bạch Đằng, phủ cỏ lên trên. Hôm ấy, nhân lúc nước triều lên, ông cho quân khiêu chiến rối giả cách thua chạy, quân Nguyên đuổi theo. Nước triều xuống, thuyền vướng cọc hết. Nguyễn Khoái chỉ huy quân Thánh dực dũng nghĩa đánh nhau với quân Nguyên, bắt sống Bình chương Áo Lỗ Xích. Hai vua Trần đem quân tiếp đến, tung quân đánh lớn, quân Nguyên chết đuối nhiều không kể xiết, nước sông do vậy đỏ ngầu. Đến khi Văn Hổ quay trở lại, quân Trần mai phục hai bên bờ hăng hái xông ra, lại đánh bại Hổ lần nữa. Nước triều rút nhanh, thuyền lương của Văn Hổ mắc trên cọc, nghiêng đắm gần hết. Quân Nguyên chết đuối rất nhiều. Quân Trần bắt được 400 chiếc thuyền. Nội ninh tự Đỗ Hành bắt được Ô Mã Nhi và Tích Lê Cơ Ngọc. Thoát Hoan và A Thai dẫn quân trốn về Tư Minh. Ngày 17, đem các tướng giặc bị bắt là Tích Lệ Cơ Ngọc, Nguyên soái Ô Mã Nhi, Tham chính Sầm Đoàn, Phàn Tiếp, Nguyên soái Điền, các vạn hộ, thiên hộ làm lễ dâng thắng trận ở Chiêu Lăng.
Khi vua cử lễ bái yết, có làm thơ rằng:
|
|
[sửa] Chấm dứt chiến tranh
Theo sử sách, lần đầu quân Mông có 3 vạn, lần thứ hai có 50 vạn và lần thứ 3 có 30 vạn. Tuy nhiên, gần đây các nhà nghiên cứu xác định rằng lần thứ hai và thứ ba, quân số nhà Nguyên mang sang không lớn như vậy, chỉ có khoảng 10 vạn người[2]
Sau thất bại lần thứ ba năm 1288 ở Đại Việt, Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt vẫn chưa muốn đình chiến. Sang các năm sau, vua Nguyên tiếp tục muốn điều binh sang nhưng chưa gặp thời cơ thuận tiện. Có năm sắp tiến quân thì chánh tướng chết nên hoãn binh, năm sau định đánh thì phó tướng lại chết nên lại đình chỉ việc tiến quân. Tới năm 1294 lại định điều binh lần nữa thì chính Hốt Tất Liệt băng hà. Cháu nội là Nguyên Thành Tông lên ngôi không muốn gây chiến với Đại Việt nữa. Việc chiến tranh với nhà Nguyên từ đó mới chấm dứt.
[sửa] Nguyên nhân thắng lợi
Nguyên nhân cơ bản nhất cho những thành công của nhà Trần là chính sách đoàn kết nội bộ của những người lãnh đạo. Dù trong hoàng tộc nhà Trần có những người phản bội theo nhà Nguyên nhưng nước Đại Việt không bị mất, nhờ sự ủng hộ của đông đảo dân chúng.
Còn một nguyên nhân nữa phải kể tới trong thành công của nhà Trần là đội ngũ tướng lĩnh xuất sắc, nòng cốt lại chính là các tướng trong hoàng tộc nhà Trần. Dù xuất thân quyền quý nhưng các hoàng tử, thân tộc nhà Trần, ngoài lòng yêu nước - và bảo vệ quyền lợi dòng tộc - số lớn là những người có thực tài cả văn lẫn võ. Thật hiếm dòng họ cai trị nào có nhiều nhân tài nổi bật và nhiều chiến công như nhà Trần, đặc biệt là thế hệ thứ hai: Trần Quốc Tuấn, Trần Thánh Tông, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật đều là những tên tuổi lớn trong lịch sử Việt Nam. Đó là chưa kể tới Trần Thủ Độ, Trần Khánh Dư, Trần Quốc Toản...
Theo các nhà nghiên cứu, chiến thắng của nhà Trần có được nhờ vào sự sáng suốt của các tướng lĩnh trong chiến thuật, đứng đầu là Trần Hưng Đạo. Trong khi tác chiến, các tướng lĩnh nhà Trần chủ động tránh lực lượng hùng hậu người Mông mà đánh vào các đạo quân người Hán bị cưỡng bức theo quân Mông sang Đại Việt. Tâm lý của những người mất nước và phải chịu sự quản thúc của người Mông khiến các đạo quân này nhanh chóng tan rã, sức kháng cự thấp. Một cánh quân tan rã có tác động tâm lý lớn tới các đạo quân còn lại trên toàn mặt trận[3]
Mông-Nguyên đương thời là đế quốc lớn nhất thế giới. Những nơi người Mông bại trận lúc đó như Ai Cập quá xa xôi, Nhật Bản và Indonesia đều có biển cả ngăn cách và quân Mông cũng không có sở trường đánh thủy quân nên mới bị thua trận. Thế nhưng nước Đại Việt lúc đó nằm liền kề trên đại lục Trung Hoa, chung đường biên giới cả ngàn dặm với người Mông mà người Mông vẫn không đánh chiếm được. Một đế quốc đã nằm trùm cả đại lục Á- Âu mà không lấy nổi một dải đất bé nhỏ ở phía nam. Có so sánh tương quan lực lượng với kẻ địch và vị trí địa lý với những quốc gia làm được điều tương tự mới thấy được sự vĩ đại của chiến công 3 lần đánh đuổi Mông-Nguyên của nhà Trần.
[sửa] Chú thích
- ▲ Trần Bình Trọng là dòng dõi Lê Đại Hành, chồng sau của công chúa Thuỵ Bảo, ông cha làm quan đời Thái Tông, được ban quốc tính
- ▲ Thuyết Trần - Trần Xuân Sinh, NXB Hải Phòng, 2004
- ▲ Thuyết Trần - Trần Xuân Sinh, NXB Hải Phòng, 2004