Gioan Phaolô II
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
18 tháng 5 năm 1920 – 2 tháng 4 năm 2005) là người được bầu làm Giáo hoàng của Giáo hội Công giáo Rôma vào ngày 16 tháng 10 năm 1978; ông lấy danh hiệu Gioan Phaolô Đệ nhị (Latinh: Ioannes Paulus II; tiếng Anh: John Paul II; tiếng Pháp: Jean Paul II). Ông đã lãnh đạo giáo hội này trên 26 năm từ 1978 đến lúc mất.
([sửa] Tiểu sử
Karol Józef Wojtyła sinh vào ngày 18 tháng 5 năm 1920 tại Wadowice, miền nam Ba Lan, là con của một cựu sĩ quan trong quân đội Habsburg. Lúc nhỏ tuổi ông có tiếp xúc nhiều lần với nhóm người Do Thái tại Kraków. Trong thời Đức quốc xã chiếm Ba Lan trong Đệ nhị thế chiến, ông đã làm việc trong một mỏ đá và một nhà máy hóa học. Khi ông còn trẻ ông đã là một vận động viên, một diễn viên, một nhà soạn kịch, và một nhà ngôn ngữ học (ông biết đến 11 ngôn ngữ). Karol Wojtyła được phong chức linh mục vào ngày 1 tháng 11 năm 1946. Ông dạy môn luân lý tại Đại học bách khoa Jagiellonian và sau này tại Đại học Công giáo Lublin. Vào năm 1958 ông được phong chức làm Giám mục Phụ tá Địa Phận Kraków và bốn năm sau ông làm Giám Quản Địa Phận (Vicar Capitular).
Vào ngày 30 tháng 12 năm 1963, giáo hoàng Phaolô VI đề bạt ông làm tổng giám mục Kraków. Trong cương vị tổng giám mục, ông Wojtyła tham dự Công đồng Vatican II, góp công soạn thảo các tài liệu Tuyên ngôn về tự do tôn giáo (Dignitatis Humanae) và Hiến chế Mục Vụ Giáo hội trong thế giới ngày nay (Gaudium et Spes, Vui mừng và Hy vọng), hai văn bản có tính cách lịch sử và quan trọng nhất của Công đồng này.
Trong năm 1967 giáo hoàng Phaolô VI nâng ông thành hồng y. Vào tháng 8 năm 1978, sau khi giáo hoàng Phaolô VI mất, ông đã tham gia Hồng Y Đoàn chọn Albino Luciani, Hồng y Tổng giám mục của Venice làm giáo hoàng Gioan Phaolô I. Khi được chọn làm giáo hoàng, Luciani chỉ 65 tuổi, trẻ so với nhiều giáo hoàng khác. Vào ngày 28 tháng 9 năm 1978, chỉ 33 ngày sau khi nhậm chức, giáo hoàng Gioan Phaolô I qua đời. Vào tháng 10 năm 1978 ông Wojtyła trở về lại Toà thánh Vatican để bầu giáo hoàng mới.
[sửa] Giáo hoàng
Vào ngày 16 tháng 10, khi ông 58 tuổi, ông đã được bầu để kế vị giáo hoàng Gioan Phaolô I, trở thành giáo hoàng từ ngoài nước Ý đầu tiên trong gần 500 năm và giáo hoàng gốc người Slav đầu tiên trong lịch sử công giáo. Vào ngày 13 tháng 5 năm 1981, ông đã bị một người đàn ông Hồi giáo gốc Thổ Nhĩ Kỳ tên là Mehmet Ali Ağca bắn trọng thương khi ông đang đứng trên xe chạy vòng quanh Quảng trường Thánh Phêrô. Sau khi bình phục, ông đã đến thăm kẻ bắn ông trong tù hai ngày sau Giáng sinh năm 1983.
Như Giáo hoàng trước ông, Gioan Phaolô II đã đơn giản hóa chức vụ này và làm nó bớt huy hoàng. Ông không tự xưng là "chúng tôi" như các giáo hoàng trước; thay vào đó ông dùng "tôi". Ông chọn làm một lễ tấn phong đơn giản chứ không rườm rà, và ông chưa đội mũ giáo hoàng trong khi đảm nhiệm. Ông làm thế để nhấn mạnh tên chức vụ hầu hạ của mình là Tôi tớ của những người tôi tớ của Chúa (Servus Servorum Dei).
Trong những năm làm giáo hoàng, Gioan Phaolô II đã vận động chống chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa tư bản không kiềm chế và việc đàn áp chính trị. Ông cũng cương quyết chống việc phá thai, giữ vững lập trường về sự độc thân của chức linh mục, không phong chức linh mục cho phụ nữ và đặc biệt đã triệu tập các hồng y và giám mục Hoa Kỳ về Vatican để đối phó với việc lạm dụng tình dục do một số các linh mục gây nên.
Trong hơn 100 chuyến đi ra ngoài nước ông đã thu hút rất nhiều đám đông. Ông đã du hành xa hơn tất cả những giáo hoàng trước cộng lại. Những chuyến đi này là dấu hiệu của nỗ lực bắc cầu nối lại những quốc gia và tôn giáo trong nhiệm kỳ của ông.
Gioan Phaolô II đã phong chân phước và phong thánh cho nhiều người hơn tất cả những giáo hoàng trước. Đến tháng 10 năm 2004, ông đã tuyên phúc tổng cộng 1.340 người. Việc ông có phong thánh cho nhiều người hơn số người được những giáo hoàng trước phong thánh cộng lại khó xác minh được vì hồ sơ việc phong thánh lúc ban đầu còn thiếu sót.
Vào ngày 14 tháng 3 năm 2004, nhiệm kỳ của ông trở thành nhiệm kỳ dài thứ ba, dài hơn nhiệm kỳ của giáo hoàng Leo XIII.
Vào cuối tháng 3 năm 2005, khi ông 84 tuổi, ông trở bệnh nặng và phải nhập viện. Vào ngày 1 tháng 4, tình trạng ông bị trầm trọng khi tim và thận ông bị suy nhược. Vào ngày 2 tháng 4, Tòa thánh Vatican tuyên bố rằng ông đang "hấp hối". Ông qua đời vào tối đó.
[sửa] Liên kết bên ngoài
- Tòa thánh Vatican
- Cuộc đời giáo hoàng John Paul II, từ VNN
- Cuộc đời giáo hoàng John Paul II, từ BBC Việt ngữ
- Thuật ngữ Công giáo
Người tiền nhiệm Gioan Phaolô I |
Danh sách các giáo hoàng |
Người kế nhiệm Benedict XVI |
Dữ liệu nhân vật | |
---|---|
Tên | Gioan Phaolô II |
Tên khác | Giáo hoàng Gioan Phaolô II; Gioan Phaolô Đệ nhị; Giáo hoàng Gioan Phaolô Đệ nhị; Ioannes Paulus PP. II (tiếng Latinh); John Paul II (tiếng Anh); Jean Paul II (tiếng Pháp); Wojtyła, Karol Józef (tiếng Ba Lan); Jan Paweł II (tiếng Ba Lan) |
Tóm tắt | Giáo hoàng thứ 264 của Giáo hội Công giáo Rôma (1978–2005) |
Lúc sinh | 18 tháng 5, 1920 |
Nơi sinh | Wadowice, Ba Lan |
Lúc mất | 2 tháng 4, 2005 |
Nơi mất | Điện Giáo hoàng, Thành Vatican |