Mikoyan-Gurevich MiG-3
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
MiG-3 | |
---|---|
MiG-3 Không quân Xô Viết | |
Kiểu | Máy bay tiêm kích |
Hãng sản xuất máy bay | Mikoyan-Gurevich |
Tình trạng | Phục vụ hạn chế |
Hãng sử dụng chính | Không quân Xô Viết |
Những phương án tương tự | I-210 I-211 I-230 |
Mikoyan-Gurevich MiG-3 (Tiếng Nga: Микоян и Гуревич МиГ-3) là một loại máy bay chiến đấu của Liên bang Xô-viết trong chiến tranh thế giới II. Nó là phiên bản mở rộng của MiG-1 được thiết kế bởi OKO (opytno-konstrooktorskiy otdel - Experimental Design Department - Cục thiết kế thực nghiệm).
Mục lục |
[sửa] Lịch sử
Mikoyan và Gurevich đã có một số thay đổi lớn trong thiết kế của MiG-1 theo 2 hướng dùng để đánh chặn và tìm kiếm trên chiến trường sau khi đã nghiên cứu tại đường hầm tạo gió thuộc Trung tâm hàng không và Viện động lực học chất lưu (TsAGI). Những cải tiến này được trình bày tại một hội đồng nghiệm thu cấp nhà nước.
Những thay đổi bao gồm:
- Dịch động cơ lên phía trước 4 inches (100mm) để tăng sự ổn định.
- Tăng thêm góc nhị diện ở phía ngoài để ổn định hơn.
- Đưa vào sử dụng bộ tản nhiệt nước (OP-310), cho phép thêm vào 55 imp. gallon (250L) nhiên liệu.
- Thêm thùng dầu phụ dưới động cơ.
- Bộ phận thải khí từ động cơ làm giảm khả năng trúng đạn trong trường hợp bị quân địch bắn.
- Thêm vào 8 mm giáp đằng sau phi công (sau này là 9 mm cho các bản cải tiến tiếp theo).
- Bơm tăng khả năng nạp không khí ở khe lấy.
- Tăng sức mạnh của trục bánh.
- Tăng kích thước của bánh lên 25.5"x 7.87" (650mm x 200mm).
- Cải thiện mái che, tận dụng cho phi công nhìn về phía sau và cho phép đặt thêm đằng sau phi công máy vô tuyến RSI-1 (sau này cải tiến thành RSI-4).
- Thiết kế lại dụng cụ panen.
- Cải tiến giá lắp súng PBP-1 thành PBP-1A.
- Tăng thêm cơ số đạn cho súng ShKAS lên 750.
- Gia tăng độ chắc chắn của giá đỡ dưới bụng máy bay, thêm vào khối lượng bom là 485lbs 220 kg), thùng phun thuốc hoặc 8 tên lửa không điều khiển RS-82.
Chiếc máy bay đầu tiên được ứng dụng các cải tiến là I-200 số 4, đây là mẫu thử nghiệm của I-200, sau này được đổi tên thành MiG-1. Nó bay lần đầu tiên vào cuối tháng 10-1940. Theo sau những thành công đầu tiên từ chuyến bay là thử thách trong cuộc thi ứng tuyển cho VVS (Voyenno-voz-dooshnyye seely - Military Air Forces - Lực lượng không quân).
Trong suốt quá trình thử nghiệm, NKAP (Narodnyy komissariat aviatsionnoy promyshlennosti - People's Ministry of the Aircraft Industry - Bộ công nghiệp hàng không nhân dân) đã công bố mẫu MiG-3 sẽ được chọn để sản xuất, và tổng cộng đã có 3600 chiếc được sản xuất trong năm 1941.
Sau khi MiG-3 được đưa ra bảo vệ tại hội đồng nghiệm thu cấp nhà nước, nó được đưa vào sản xuất ngày 20-12-1940. Từ tháng 3-1941, mỗi ngày lại có 10 chiếc được sản xuất. Quá trình sản xuất không thể diễn ra chậm trễ trước những nhu cầu trang bị để có thể sánh ngang với loại máy bay trinh sát Junkers Ju 86 của Đức khi sự thù địch giữa Đức và Liên bang Xô viết đang diễn ra một cánh gay gắt.
Trước chiến dịch Barbarossa của quân Đức, hơn 1,200 chiếc MiG-3 đã được cung cấp tới các đơn vị.
Trong quá trình thử nghiệm máy bay vẫn còn những nhược điểm của MiG-1 như khối lượng lớn và mức tiêu thụ nhiên liệu quá lớn, Mikoyan và Gurevich đã hứa sẽ khắc phục những nhược điểm này. Mikoyan và Gurevich đã sắp xếp hơn 2 chuyến bay giữa Leningrad và Moscow để chứng tỏ MiG-3 có khả năng bay xa 1000 km.
Tuy nhiên điều này đã không được khắc phục, MiG-3 vẫn gặp các vấn đề trong suốt quá trình triển khai thử nghiệm. Vài mẫu MiG-3 được sản xuất đã không thể đáp ứng độ cao do áp lực của nhiên liệu. Các phi công đã cố gắng điều khiển những chiếc MiG-3 gặp vấn đề. Ngay sau đó một loại nhiên liệu mới được đưa vào sử dụng đã khắc phục những vấn đề đó, việc điều khiển huấn luyện dễ dàng hơn đã giúp các phi công dần quen với MiG-3.
Trong 2 năm sau đó, MiG-3 đã được thêm một số vũ khí như súng máy gắn trên và pháo ShVAK.
Do diều kiện chiến tranh với quân Đức, MiG-3 đã phải đóng vai trò là máy bay tấn công mặt đất, nhưng nó nhanh chóng bộc lộ nhiều yếu kém, và nó mất dần vai trò. Sự quên lãng của MiG-3 bị gián đoạn khi động cơ AM-35 được thay thế bởi AM-38, vốn được trang bị cho Ilyushin Il-2 Shturmovik loại máy bay nổi tiếng trong chiến tranh thế giới thứ II.
Trong suốt chiến tranh, Mikoyan và Gurevich vẫn tiếp tục phát triển MiG-3 để tăng thêm trần bay, những mẫu cải tiến với sức mạnh lớn hơn được gọi với tên từ I-220 đến I-225 (Điểm khỏi đầu cho một số nhầm lẫn khi tên gọi MiG-7 được dùng để chỉ những mẫu máy bay cải tiến của MiG-3). Cuộc chiến trên không với Đức đã chứng minh rằng thời hoàng kim của động cơ pit-tông đã qua, và không một mẫu sản xuất nào có thể làm lại lịch sử như nó.
Một số mẫu thiết kế đã thử lắp động cơ mới vào, với động cơ mới là một thiết kế sáng tạo AM-37. Mẫu thử nghiệm này được gọi là MiG-7, nhưng với sự dừng sản xuất động cơ AM-37, đề án đã phải dừng lại. Mùa xuân năm 1942, những chiếc MiG-3 được bị rút khỏi các phi đội phòng thủ ở chiến trường. Trong cố gắng lắp máy mới lần cuối với động cơ đốt trong Shvetsov ASh-82 để giúp cho MiG-3 lấy lại niềm tin, những động cơ tương tự đã được sử dụng để tạo ra mẫu máy bay Lavochkin La-5 từ LaGG-3. Mẫu đầu tiên được gọi với tên I-210 và I-211, những kết quả thử nghiệm đã thành công đủ để những mẫu cải tiến sau này hiệu quả hơn với tên gọi MiG-9. Tuy nhiên, mẫu La-5 đã được sản xuất và mẫu I-211 không được hoàn thiện hơn để đưa vào phục vụ không quân. Một số chiếc MiG-9 được thử nghiệm với động cơ Pratt & Whitney R-2800-63 của Hoa Kỳ.
2 mẫu thử nghiệm cuối cùng là I-230 và I-231, được phát triển trên nguồn gốc của MiG-3, được sử dụng loại động cơ lớn hơn, nhưng chúng không được không quân Sô-viết để ý đến.
[sửa] Lực lượng sử dụng
- Liên bang Xô Viết
- Không quân Xô Viết
- Romania
- Phần Lan có đặt khoảng 70 chiếc MiG-3, nhưng chưa nhận được chiếc nào; không một chiếc nào bay với màu cờ của Phần Lan.
[sửa] Đặc điểm kỹ thuật (Mikoyan-Gurevich MiG-3)
[sửa] Đặc điểm riêng
- Phi đoàn: 1 người
- Dài: 8.25 m (27 ft 1 in)
- Chiều dài cánh: 10.20 m (33 ft 6 in)
- Chiều cao: 3.50 m (11 ft 6 in)
- Diện tích cánh: 17.44 m² (188 ft²)
- Loại cánh: Clark YH
- Trọng lượng rỗng: 2,699 kg (5,965 lbs)
- Trọng lượng cất cánh: 3,355 kg (7,415 lbs)
- Động cơ: 1× Mikulin AM-35A bộ làm mát bằng không khí V-12, công suất 993 kW (1,350 HP)
[sửa] Đặc điểm bay
- Vận tốc tối đa: 640 KMH (397 MPH)
- Phạm vi hoạt động: 820 km (510 miles)
- Trần bay: 11,500 m (37,700 ft)
- Tốc độ lên cao: 14.7 m/s (2,890 ft/min)
- Lực nâng của cánh: 192 kg/m² (39.4 lb/ft²)
- Lực đẩy/khối lượng: 0.30 kW/kg (0.18 hp/lb)
[sửa] Vũ khí
- 1x súng máy 12.7 mm UBS
- 2x súng máy 7.62 mm ShKAS
- 2x 100 kg (220 lb) bom, 2 khe gắn bom hoặc gắn 6 quả tên lửa không điều khiển RS-82 82 mm
[sửa] Liên kết ngoài
[sửa] Nội dung liên quan
[sửa] Máy bay cùng sự phát triển
MiG-1 - MiG-7 - MiG I-210 - I-211 - I-225 - I-231
[sửa] Máy bay có tính năng tương tự
Heinkel He 100 - Curtiss XP-37
[sửa] Danh sách máy bay tiếp theo
MiG-1 – MiG-3 - MiG-5 (DIS) - MiG-7 - MiG-8 - MiG-9 (I-210)/MiG-9 (I-301)
Các loại máy bay do hãng Mikoyan sản xuất | |
---|---|
Máy bay tiêm kích: | MiG-1 - MiG-3 - MiG-5 - MiG-7 - MiG-9 - MiG-15 - MiG-17 - MiG-19 - MiG-21 - MiG-23 - MiG-25 - MiG-29 - MiG-31 - MiG-33 - MiG-35 |
Máy bay thí nghiệm: | I-210 - I-211 - I-230 - I-220 - I-231 - I-222 - I-224 - I-225 - I-250 - MiG-8 - I-270 - I-320 - I-350 - I-360 - SN - I-370 - Ye-2 - Ye-4 - Ye-5 - Ye-50 - I-7U - SM-12 - I-75 - Ye-152A - Ye152P - Ye-8 - MiG-23PD - MiG-110 - MiG-AT - Dự án MiG 1.44/1.42 - Dự án MiG LFI - MiG-105 |
Hãng máy bay Nga: | Antonov - Ilyushin - Mikoyan - Sukhoi - Tupolev - Yakovlev |