Lịch sử Đức
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bài này viết về lịch sử Đức một cách tổng quát từ lúc khởi đầu cho đến thời hiện đại. Từng thời kỳ một được trình bày một cách chi tiết hơn trong các bài viết chính của thời kỳ đó.
Mục lục |
[sửa] Tiền sử, thời Cổ Đại, thời gian đầu của thời kỳ Trung cổ
Các bằng chứng lâu đời nhất về con người trên lãnh thổ của nước Cộng hòa Liên bang Đức ngày nay có độ tuổi vào khoảng 700.000 năm. Người ta tin rằng trước đây 500.000 năm con người đã định cư tại đây.
Một số bộ tộc người Celt và người German được người Hy Lạp và La Mã nhắc đến lần đầu tiên vào thời trước Công Nguyên. Vào khoảng năm 500 TCN người Celt định cư ở vùng miền Nam của nước Đức ngày nay và ở miền Bắc là người German. Người German di dân trong vòng nhiều thế kỷ về phía Nam nên vào thời Công Nguyên dòng sông Donau là ranh giới áng chừng giữa những làng mạc người Celt và người German. Từ năm 58 TCN cho đến khoảng năm 455 sau Công Nguyên, các vùng đất tả ngạn sông Rhein cũng như nam sông Donau và từ khoảng năm 80 TCN đến năm 260 sau Công Nguyên phần lớn của tiểu bang Baden-Württemberg ngày nay và vùng đất phía nam sông Limes đều thuộc về Đế quốc La Mã. Người La Mã đã kiến lập nhiều thành phố nổi tiếng như Trier, Köln và Bonn cũng như đã mang lại nhiều đổi mới trong xây nhà và thủ công, một phần vẫn còn ảnh hưởng đến ngày nay. Người dân từ tất cả các vùng đất của Đế quốc La Mã, đặc biệt là từ Ý, di dân đến và định cư tại phía tây sông Rhein và phía Nam sông Donau. Nhà viết sử La Mã Tacitus là người đầu tiên viết về lịch sử của toàn thể German vào năm 98. Trong cuộc di dân vào thế kỷ thứ 5 và thế kỷ thứ 6, nhiều bộ tộc người German đã đi đến Nam Âu và Tây Âu. Nhiều bộ tộc người Slavơ di dân trong thế kỷ thứ 7 vào các vùng đất gần như không có người của miền Đông nước Đức ngày nay cho đến đường sông Elbe-Saale. Vì thế mà phần lớn người dân của các tiểu bang miền Đông nước Đức chịu nhiều ảnh hưởng Slavơ cho đến giữa thời Trung Cổ (Germania Slavica). Trong thời gian định cư miền Đông giữa thời kỳ Trung Cổ, những người Slavơ này đã được đồng hóa.
[sửa] Nước Đức thành hình
Gần như không thể khẳng định một cách khách quan là người ta bắt đầu nói đến "nước Đức" (Deutschland) từ lúc nào. Không có thời điểm rõ ràng cho việc hình thành một quốc gia Đức độc lập, cả về chủng tộc, về ngôn ngữ lẫn về lãnh thổ. Nhiều nhóm dân và bộ tộc được gộp chung dưới khái niệm người German, những người đã định cư từ trước thời Thượng cổ trong vùng đất của nước Đức ngày nay.
Các bộ tộc người Indogerman hay con cháu của họ đã di dân đến đấy trong thời kỳ Đồ Đồng và Đồ Sắt và đã tự pha trộn với những người dân tại chổ đã định cư ở đấy từ cuối thời kỳ Băng hà và sau đó là với những dân tộc hay người dân "đi ngang qua" , thí dụ như
- Người Celt gốc Indogerman trong miền Nam nước Đức, những người đã có ảnh hưởng lớn đến văn hóa châu Âu trong nhiều vùng đất rộng lớn cho đến cuối thời Thượng Cổ.
- Người La Mã trong vùng miền Nam và miền Tây nước Đức ngày nay, quân đội của họ đã chiếm đóng miền Nam và miền Tây của Germanien dọc theo sông Donau và Rhein cho đến khoảng thế kỷ thứ 5.
- Người Slavơ phía đông sông Elbe trong lúc di dân về phía Đông từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 14.
- Những dân tộc khác trong thời di dân, thí dụ như người Sarmante (tiếng Anh: Sarmatian).
Vùng đất Trung Âu lục địa giữa Đại Tây Dương, biển Baltic và phía Nam dãy núi Alpen chỉ được thống nhất vào thời kỳ của Vương quốc Frank của Đại đế Karl (còn gọi là Vương quốc Karoling). Sau cái chết của Karl, vương quốc này được chia làm ba trong Hiệp ước Verdun vào năm 843 cho 3 người cháu của ông. Nước Pháp hình thành sau này từ Vương quốc Frank Tây, hình thành từ Vương quốc Frank Đông là nước Đức ngày nay, trong khi "Vương quốc giữa", sau này là Bourgogne và Lorraine, bị chia xẻ giữa Pháp và Vương quốc Frank Đông trong thời Trung Cổ.
Vương quốc Frank Đông chưa phải là "Đức" nhưng ít nhất đã tạo thành một khuôn khổ về địa lý cho nước Đức sau này. Mãi đến giữa thời kỳ của dòng họ Otto, tên regnum teutonicum (tiếng La tinh cho "Vương quốc Đức") mới bắt đầu xuất hiện thường xuyên hơn. Người ta có thể xem thời gian từ khi Vương quốc Karoling tan rã cho đến giữa thời Trung cổ là giai đoạn tiếp chuyển của sự hình thành khái niệm "nước Đức". Việc xưng vua và đăng quan của Otto I đánh dấu sự kết thúc đầu tiên cho gian đoạn này.
Từ thế kỷ 11, một cấu trúc quốc gia đã hình thành mà về mặt chính trị có thể xem là độc lập và từ đó đã hình thành cái mà ngày nay gọi là "nước Đức" (xem Đế quốc La Mã Thần thánh).
[sửa] Thời Trung cổ
- Đọc bài chính về nước Đức thời Trung cổ
- Đọc bài Đế quốc La Mã Thần thánh
[sửa] Thời gian đầu của Trung cổ: Vương quốc Karoling tan rã
- Đọc bài chính về nước Đức trong thời gian đầu của Trung cổ
Vương quốc Frank bắt đầu tan rã khi bị phân chia trong năm 843. Con trai của Đại đế Karl, Ludwig Ngoan đạo (Ludwig der Fromme), vẫn còn có thể gìn giữ được sự thống nhất của vương quốc. Ông chỉ định người con trai đầu là Lothar I (tiếng Pháp: Lothaire I) làm người nối ngôi. Lothar I nhận lãnh vương quốc ở giữa và danh hiệu hoàng đế, Karl Hói (Karl der Kahle, tiếng Pháp: Charles le Chauve) nhận phần phía tây và Ludwig Đức (Ludwig der Deutsche) phần phía đông. Sau khi các người con trai của Lothar I chết, vương quốc giữa được chia về cho Karl Hói và Ludwig Đức. Khi Ludwig chết năm 876 vương quốc Frank Đông cũng được chia cho 3 người con trai của ông là Karlmann, Ludwig Trẻ (Ludwig der Jüngere) và Karl Béo (Karl der Dicke). Năm 880 ranh giới với Vương quốc Frank Tây được xác định và từ đấy đã phân chia gần như không thay đổi Đế chế Đức với nước Pháp trong suốt cả thời Trung cổ. Vua Frank Đông, Karl Béo, đã có thể thống nhất Vương quốc Frank một thời gian ngắn sau khi anh em của ông và vua của Frank Tây chết, nhưng lại bị cháu của ông là Arnulf của Kärnten, con trai của Karlmann, đẩy lui trong năm 887 do quyền lực cai trị quá yếu ớt. Dòng dõi Karoling (tiếng Anh: Carolingian) Đông chấm dứt khi Ludwig Con trẻ (Ludwig das Kind), con trai của Arnulf và là người cuối cùng của dòng họ, chết vào năm 911.
[sửa] Triều đại Otto
Sau khi dòng họ Karoling tuyệt hậu, nhằm để không gây nguy hại đến quyền lực riêng, công tước của các bộ tộc đã bầu công tước người Frank Konrad I, người được cho là yếu đuối, lên làm vua của họ vào năm 911. Tiếp theo ông là công tước Sachsen Heinrich I từ dòng họ Liudolfing hay Otto. Heinrich I đã bảo vệ vương quốc chống lại những cuộc tấn công của người Hung và người Slavơ. Bên cạnh di sản Frank, một tính cách Đức riêng biệt ngày càng nổi bật. Heinrich I chỉ định con trai của ông là Otto I làm người kế vị. Vị vua này dựa vào Nhà Thờ để bảo vệ quyền lực của ông (đọc bài Hệ thống Nhà thờ Vương quốc). Năm 955 Otto chiến thắng người Hung trong Trận Lechfeld. Năm 950 Böhmen và từ năm 963 Ba Lan đã có thời gian là lãnh thổ phụ thuộc vào nền độc lập Đức-La Mã. Otto mở rộng vùng thống trị của ông với nhiều phần đất của nước Ý. Sau khi kết hôn với Adelheid của Burgund ông tự xưng là vua của người Langobard (tiếng Anh: Lombard). Năm 962 Otto đăng quang làm hoàng đế. Ở Nam Ý ông sa vào tranh chấp với hoàng đế Byzantine. Con trai của ông, Otto II, cuối cùng kết hôn với Theophanu, cháu gái của hoàng đế Byzantine, thế nhưng Nam Ý vẫn thuộc về Đế quốc Byzantine. Năm 983 Otto II bị thất trận nặng nề trước người Ả Rập. Các vùng đất phía đông sông Elbe bị mất đi cho đến gần 20 năm trong cuộc nổi dậy của người Slavơ. Con trai của Otto, Otto III, chết trước khi ông kịp thực hiện kế hoạch chuyển dời quyền lực về Roma. Vị vua Otto cuối cùng, Heinrich II, phải chống cự lại Ba Lan (vua Bolesław I) và Hungary (vua Stephan I). Dưới thời của ông, hệ thống nhà thờ vương quốc tiếp tục được mở rộng.
[sửa] Giữa thời Trung cổ: Các hoàng đế người Sali
- Đọc bài chính về nước Đức giữa thời Trung cổ
Năm 1024 các tuyển hầu Đức bầu người Sali Konrad II lên làm hoàng đế. Ông thu được vương quốc Burgund trong năm 1032. Người kế thừa ông, Heinrich III, truất phế ba giáo hoàng kình địch lẫn nhau, đưa Clemens II là một người thuộc phe cải tổ lên làm Giáo Hoàng và để cho Clemens làm lễ lên ngôi hoàng đế cho ông vào năm 1046. Dưới thời hoàng đế Heinrich IV cuộc tranh cãi về quyền bổ nhiệm các giám mục bùng nổ lớn vì những người muốn cải cách Nhà Thờ quy tội hoàng đế buôn bán các chức vụ của Nhà Thờ. Heinrich tuyên bố truất phế Giáo hoàng Gregor VII. Sau đấy Giáo Hoàng lại tuyên bố trục xuất Heinrich ra khỏi đạo. Để hủy bỏ việc trục xuất ra khỏi Nhà Thờ này, Heinrich IV đã phải đích thân về đến Canossa (đọc bài Chuyến đi Canossa). Năm 1804 ông lại truất phế Giáo hoàng Gregor và để cho Giáo hoàng Clemens III làm lễ đăng quang trở thành hoàng đế tại Roma. Con của ông là Heirich V cuối cùng lại liên kết với các quận công chống lại và truất ngôi ông. Một cuộc chiến tranh kéo dài chỉ được tránh khỏi do người cha mất trong năm 1106. Cùng với Giáo ước Worms (Wormser Konkordat) hoàng đế Heinrich V giảng hòa với Nhà Thờ trong năm 1122. Sau khi Heinrich V qua đời, các tuyển hầu đã bầu Lothar III của Suplinburg lên làm vua. Việc dòng họ Welf nhiều quyền lực ủng hộ Lothar chống lại Friedrich thuộc dòng họ Stauf đã gây ra cuộc tranh chấp quyền lực kéo dài trong suốt thế kỷ 12 giữa hai dòng họ Welf và Stauf.
[sửa] Triều đại Stauf
Sau khi Lothar qua đời năm 1138, Konrad III thuộc dòng họ Stauf lên ngôi, thu hồi lại lãnh địa của công tước Heinrich Kiêu hãnh (Heinrich der Stolze), là con rể của Lothar. Friedrich I nối ngôi Konrad đã cố gắng giảng hòa bằng cách trao lại cho Heinrich Sư tử (Heinrich der Löwe) các phần đất của người cha ông là Sachsen và Bayern vào năm 1156. Trở thành lãnh chúa mới, Heinrich Sư tử đã khuất phục được người Slavơ ở Mecklenburg và Pommern.
Friedrich đạt đến việc thăng quan làm hoàng đế nhờ vào Hiệp định Konstanz năm 1153. Ông chiến thắng các thành phố vùng Lombardia (Ý) đòi hỏi có nhiều quyền tự chủ hơn. Cùng với Giáo Hoàng mới là Alexander III, cuộc tranh chấp giữa hoàng đế và giáo hoàng lại tái bắt đầu. Sau khi thất trận ở Legnano, Friedrich phải công nhận Alexander là Giáo Hoàng. Năm 1180 Friedrich thu lại các lãnh địa của Heindrich Sư tử vì Heindrich đã không ủng hộ chính sách nước Ý của ông. Bắt đầu từ 1187 Friedrich I dẫn đầu đoàn quân Thập tự chinh. Ông chết ở Syria năm 1190. Con trai của Friedrich là Heinrich VI trở thành vua của Sicilia năm 1194 nhờ vào cuộc hôn nhân với công chúa Konstanze người Norman. Khi Heindrich VI qua đời năm 1197 cùng một lúc Philipp của Schwaben dòng họ Stauf là anh em của Heindrich VI và Otto IV dòng họ Welf, con trai của Heindrich Sư tử, đều được bầu lên làm vua. Sau khi Philipp bị giết chết năm 1208, Otto IV lên ngôi vua. Thế nhưng vì những cuộc chinh chiến ở Ý của Otto, Giáo Hoàng lại ủng hộ Friedrich II thuộc dòng họ Stauf, là con trai của Heinrich VI. Trận Bouvines đã mang lại thắng lợi cho Friedrich năm 1214. Friedrich cai trị vương quốc của mình từ Sicilia. Năm 1220 Friedrich đăng quang làm hoàng đế và sau đấy lại có cuộc tranh chấp quyền lực với Giáo hoàng Gregor IX, người đã khai trừ hoàng đế năm 1227. Mặc dù vậy Friedrich vẫn đạt được việc giao trả Jerusalem trong Đất Thánh. Cuộc xung đột vẫn tiếp tục kéo dài khi Innozenz IV kế thừa Gregor. Innozenz tuyên bố truất ngôi hoàng đế của Friedrich năm 1245. Friedrich II qua đời năm 1250. Sau cái chết của ông, cuộc tranh chấp giữa giáo hoàng và dòng họ Stauf vẫn tiếp diễn. Năm 1268 người cuối cùng của dòng họ Stauf, con trai 16 tuổi của Konrad IV, Konradin của Hohenstaufen đã bị xử tử công khai tại Napoli trong cuộc chiến thừa kế Silicia chống lại Karl của Anjou.
[sửa] Cuối thời Trung cổ
- Đọc bài chính về nước Đức cuối thời Trung cổ
Sau khi dòng họ Stauf không còn người nối dòng dõi, quyền lực của hoàng đế ngày càng suy sụp vào cuối thời Trung cổ. Do chỉ còn có ít tài sản, hoàng đế phải tìm cách mở rộng quyền lực. Chính vì thế mà các tuyển hầu thường lại chọn một ứng cử viên yếu đuối để tôn lên làm vua. Rudolf của Habsburg chấm dứt thời kỳ này vào năm 1273. Rudolf đã mở đường cho dòng họ Habsburg trở thành một trong những triều đại có nhiều quyền lực nhất trong đế quốc, thế nhưng ông không đạt được chiếc vương niệm. Cả hai người kế thừa, Adolf của Nassau và Albrecht I đều có mâu thuẫn với các tuyển hầu. Năm 1308 Heinrich VII thuộc dòng họ Luxembourg được bầu lên làm vua. Ông thu tóm vùng đất Böhmen để mở rộng quyền lực của mình và được tôn xưng làm hoàng đế. Trong Hiệp định Namslau năm 1348 Kisimir Đại Đế của Ba Lan công nhận vùng đất Schlesien thuộc về Böhmen và vì thế là thuộc về Thánh Chế La Mã nhưng sau đấy lại cố gắng kiện cáo hiệp định này ở Giáo hoàng. Trong thế kỷ 14, dân số quá đông, mất mùa và thiên tai đã dẫn đến nạn đói. Chỉ trong khoảng thời gian 1349/1350 một phần ba dân số đã chết vì bệnh dịch hạch và phần lớn người Do Thái đã chạy trốn qua Ba Lan vì nạn bài trừ Do Thái.
[sửa] Thời kỳ của Ludwig người Bayer và Karl IV
Sau khi Heinrich chết, Ludwig người Bayern thuộc dòng họ Wittelsbach đã vượt qua được dòng họ Habsburg trong cuộc bầu cử vào năm 1314. Năm 1327 Ludwig dời về Ý và được tôn vinh thành hoàng đế tại Roma trong năm kế tiếp theo đó. Trong cuộc đấu tranh chống lại Giáo Hoàng, lần cuối cùng trong thời Trung cổ, các tuyển hầu trong Hội nghị tuyển hầu Rhense năm 1338 đã xác nhận rằng một vị vua do họ bầu lên không cần phải được Giáo Hoàng xác nhận. Một phe đối lập do dòng họ Luxembourg đứng đầu chống lại chính sách quyền lực của Ludwig bắt đầu thành hình trong năm 1346. Karl IV người Luxembourg, với sự ủng hộ của Giáo Hoàng, đã được những người cùng phe bầu thành vị vua đối lập. Cái chết của Ludwig trong năm 1347 đã ngăn chận một cuộc chiến tranh kéo dài. Karl IV di dời trọng điểm thống trị của ông về Böhmen. Ngoài những việc khác ông đã thu được vùng đất biên giới Brandenburg. Năm 1348 trường đại học tiếng Đức đầu tiên được thành lập tại Praha. Năm 1355 Karl được tôn vinh trở thành hoàng đế. Sắc lệnh Vàng của năm 1356 đã trở thành gần như là hiến pháp cho đến khi Thánh Chế La Mã chấm dứt. Mục đích chính của sắc lệnh này là ngăn cản việc bầu một vị vua đối lập và các cuộc tranh giành ngai vàng. Karl tin rằng đã có thể củng cố được vị thế quyền lực của dòng họ Luxembourg bằng việc này.
[sửa] Habsburg, Luxembourg và Wittelsbach tranh chấp quyền lực
Dưới triều của những người kế thừa Karl, quyền lực của nhà vua suy tàn. Người con trai đầu của Karl IV, Wenzel, đã bị các tuyển hầu truất phế trong năm 1400 vì thụ động. Sau cái chết của người kế thừa là Ruprecht I của Pfalz thuộc dòng họ Wittelsbach, người em của Wenzel là Sigismund, một người thuộc dòng họ Luxembourg lại được bầu lên làm vua trong năm 1410. Mặc dù được tôn vinh lên làm hoàng đế năm 1433 nhưng ông lại không thể ổn định được vương quốc. Một cuộc cải tổ đế chế đã thất bại. Sau khi Sigismund chết, dòng họ Luxembourg không còn con trai nối dõi. Với Albrecht II, dòng họ Habsburg đã tiến lên kế thừa ngai vàng vào năm 1438. Dưới thời cai trị của Friedrich III, mặc dầu lâu dài nhưng lại lu mờ, nền tảng cho chính sách bành trướng quyền lực của dòng họ Habsburg cũng được thiết lập. Thông qua hôn nhân, con trai của ông là Maximilian I đã thu được công quốc Burgund mà đất nước Hà Lan giàu có cũng thuộc trong công quốc này và sau đó đã có thể tự khẳng định qua cuộc chiến tranh với Pháp. Cháu của ông, Philipp I Đẹp ( Philipp I. der Schöne), đã được phép kết hôn với người thừa kế vương quốc Tây Ban Nha rộng khắp trên toàn thế giới. Năm 1495 một cuộc cải tổ Đế chế được Hội đồng Đế chế ở Worms thông qua. Năm 1508 Maximilian tiếp nhận danh hiệu hoàng đế không cần giáo hoàng đăng quan. Với việc này ông đã chấm dứt vĩnh viễn các chuyến đi hành hương về Roma để làm lễ đăng quan hoàng đế của các vị vua Đức. Nguyên nhân là do quân đội của Pháp và Venezia vì có tranh chấp với Đức đã ngăn chận các đường đèo vượt núi Alpen. Chính sách hôn nhân của ông đã mang lại cho dòng họ Habsburg không những vương miện Tây Ban Nha mà còn các vùng đất Böhmen và Hungary. Dưới thời của cháu Maximilian là Karl V, vào cuối thời Trung Cổ, dòng họ Habsburg đã vươn lên trở thành một thế lực mạnh trên thế giới.
[sửa] Nước Đức thời Cận Đại
- Đọc bài chính: Nước Đức thời Cận Đại
[sửa] Cải cách Kháng Cách và Phong trào Chống Kháng Cách
- Đọc bài chính: Cải cách Kháng Cách và Phong trào Chống Kháng Cách
Cuộc Cải cách Kháng Cách bắt đầu khi Martin Luther công bố 95 luận đề chống lại việc buôn bán sự xá tội (tiếng Anh: indulgence).
Năm 1519 Karl V thuộc dòng họ Habsburg lên làm vua. Về mặt đối ngoại, ông luôn liên tục vướng bận vào các cuộc chiến tranh chống cự Đế quốc Ottoman cũng như các cuộc chiến tranh chống lại nước Pháp và Giáo Hoàng. Vì thế mà vị trí của ông trong vương quốc bị suy yếu, không thể ngăn chặn sự phổ biến của Phong trào Cải cách Kháng Cách.
Trong những năm từ 1522 cho đến 1526 thuyết của Martin Luther được đưa vào trong rất nhiều lãnh thổ và thành phố của Đế Chế. Chính những lãnh chúa là những người đã tiến hành phong trào Cải cách Kháng Cách và qua đó trở thành giám mục của lãnh địa. Người anh em của hoàng đế, Ferdinand I, có ý định hủy bỏ sự mặc nhận những người theo thuyết của Luther nhưng đã gặp phải sự phản đối của những lãnh chúa theo đạo Tin Lành.
Cuộc sống khó khăn của những người nông dân đã dẫn đến nhiều cuộc nổi dậy trong thế kỷ 15. Trong thời gian của phong trào Cải cách Kháng Cách đã có một cuộc chiến tranh nông dân kéo dài từ 1524 cho đến 1526. Một đạo quân nông dân dưới sự chỉ huy của Thomas Münzer đã bị đánh tan vào năm 1525 tại Bad Frankenhausen.
Mặc dù vậy chính sách tôn giáo của Maximilian II, con trai và là người kế vị của Ferdinand, vẫn mang tính cách tương đối khoan dung trong khi cùng thời gian đó nhiều cuộc chiến tranh tôn giáo đang tàn phá nước Pháp. Ngược lại, con trai của Maximilian, Rudolf II, lại ngày càng rời bỏ thực tế thu mình trong dinh điện của mình tại Praha nên những xung đột về tôn giáo lại tiếp tục tăng lên. Cuộc Chiến tranh Köln đã bùng nổ khi vị tổng giám mục ở đấy chuyển sang đạo Tin Lành và sự kháng cự chống lại chính sách cai trị mang tính Công Giáo khắc khe của triều đại Habsburg Tây Ban Nha tại Hà Lan, lúc đấy thuộc trong lãnh địa của Đế chế, ngày càng tăng cao.
Năm 1608 các hầu tước Tin Lành liên kết với nhau dưới sự lãnh đạo của Friedrich của Pfalz thành lập Liên minh Tin Lành (Protestanische Union) và tương tự, năm 1609 các hầu tước Công Giáo đã thành lập Liên đoàn Công Giáo (Katholische Liga) dưới sự lãnh đạo của Công tước Bayern Maximilian I.
Cuộc Chiến tranh Schmalkaden 1546/1547 là cuộc chiến đầu tiên của người Công Giáo dưới sự lãnh đạo của hoàng đế chống lại những người theo đạo Tin Lành. Tuy chiến thắng nhưng hoàng đế Karl V lại không thể giảng hòa cuộc tranh chấp bằng Tạm ước Ausburg (Ausburger Interim).
Khi các hầu tước cùng đứng lên vượt qua ranh giới tôn giáo chống lại hoàng đế, Karl V trao Tây Ban Nha lại cho con trai của ông là Philipp II và chỉ định người anh em là Ferdinand làm người kế vị vương quốc. Vị vua mới là người đã từng thương lượng cuộc hòa giải tôn giáo ở Ausburg năm 1555.
Dưới ấn tượng của cuộc Cải cách Kháng Cách, Nhà Thờ Công giáo bắt đầu một cuộc cải cách nội bộ. Thêm vào đó, Phong trào Chống Cải cách Kháng Cách cũng bắt đầu, về một mặt là việc truy tố thông qua tòa án dị giáo, về mặt khác nhiều dòng tu mới thành hình mà trong đó những người theo Dòng Tên đã đóng vai trò dẫn đầu trong việc tái Công Giáo hóa.
Mặc dù vậy chính sách tôn giáo của Maximilian II, con trai và là người kế vị của Ferdinand, vẫn mang tính cách tương đối khoan dung trong khi cùng thời gian đó nhiều cuộc chiến tranh tôn giáo đang tàn phá nước Pháp. Ngược lại, con trai của Maximilian, Rudolf II, lại ngày càng rời bỏ thực tế thu mình trong dinh điện của mình tại Praha nên những xung đột về tôn giáo lại tiếp tục tăng lên. Cuộc Chiến tranh Köln đã bùng nổ khi vị tổng giám mục ở đấy chuyển sang đạo Tin Lành và sự kháng cự chống lại chính sách cai trị mang tính Công Giáo khắc khe của triều đại Habsburg Tây Ban Nha tại Hà Lan, lúc đấy thuộc trong lãnh địa của Thánh Chế La Mã, ngày càng tăng cao.
Năm 1608 các hầu tước Tin Lành liên kết với nhau dưới sự lãnh đạo của Friedrich của Pfalz, thành lập Liên minh Tin Lành (Protestanische Union) và tương tự, năm 1609 các hầu tước Công Giáo đã thành lập Liên đoàn Công Giáo (Katholische Liga) dưới sự lãnh đạo của Công tước Bayern Maximilian I.
[sửa] Cuộc Chiến tranh 30 năm
-
- Đọc bài chính về cuộc Chiến tranh 30 năm
Sau khi được giao quyền điều hành công việc triều chính, Matthias, người anh em của Hoàng đế Rudolf II, lại hạn chế các quyền hạn đã được ban cho những người theo đạo Tin Lành. Vì thế năm 1618 đã xảy ra hai ủy viên hội đồng hoàng gia đã bị ném ra cửa sổ của lâu đài ở Praha.
Sau khi hoàng đế băng hà, người lãnh đạo Liên minh Tin Lành, Friedrich của Pfalz, trở thành vua của Böhmen. Vị hoàng đế mới, Ferdinand II, đã đích thân dẫn đạo quân của Liên đoàn Công giáo đến Böhmen. Trong Trận Núi Trắng (Schlacht am Weißen Bergen) năm 1620 đạo quân Böhmen bị đánh tan. Sau khi Friedrich bỏ trốn, Tilly chiếm lĩnh vùng Pfalz và Oberpfalz. Công tước Bayern nhận danh hiệu tuyển hầu của vùng Pfalz.
Vua Đan Mạch Christian IV mang quân vào miền Bắc nước Đức năm 1625 nhưng lại thua trận trước đạo quân của hoàng đế dưới quyền chỉ huy của Tilly và nhà quý tộc Böhmen là Wallenstein. Pommern, Jütland và Mecklenburg bị quân đội Công giáo chiếm đóng.
Sau cuộc Chiến tranh Đan Mạch, hoàng đế ra Chỉ dụ Hoàn lại (Restitutionsedikt) vào năm 1629. Lo sợ vì quyền lực của tướng Wallenstein đã tăng lên quá nhiều, các lãnh chúa trong đế chế đã truất phế ông trong hội nghị các tuyển hầu tại Regensburg trong năm 1630.
Vào thời điểm đó, vua Thụy Điển Gustav II Adolf can thiệp vào chiến sự. Tilly hy sinh tại Rain năm 1632, tiếp theo sau đó hoàng đế lại hoàn chức vụ cho Wallenstein. Trong Trận Lützen năm 1632 vua Thụy Điển tử vong. Wallenstein lại bị truất phế năm 1634 và ngay sau đó bị giết chết. Để có thể trục xuất người Thụy Điển ra khỏi đất Đức, hoàng đế đã lập lại hòa bình với tuyển hầu Sachsen năm 1635 bằng một hiệp ước đặc biệt: Hòa ước Praha.
Nước Pháp Công Giáo đứng về phía Thụy Điển năm 1635 thế nhưng không bên nào lại có thể giành phần thắng của cuộc chiến về phía mình. Nhiều phần lớn của Đế chế bị tàn phá. Mãi đến năm 1750 dân số mới đạt lại được mức trước chiến tranh. Vị hoàng đế mới Ferdinand III đã nổ lực để thương lượng hòa bình. Thế nhưng nước Đức từ lâu đã trở thành quả bóng của các quyền lực ở nước ngoài, việc đã kéo dài sự lầm than của người dân. Các cuộc thương lượng bắt đầu từ năm 1642 đã dẫn đến Hòa ước Westfalen vào ngày 24 tháng 10 năm 1648.
Theo hòa ước, nhiều phần của Lothringen và của Elsass được nhượng cho Pháp. Hà Lan và Thụy Sỹ chính thức tách rời ra khỏi Đế chế. Vị thế của các lãnh chúa và các khu vực trong đế chế được tăng cường và Hòa ước Tôn giáo Ausburg được xác nhận. Quyền lực của hoàng đế lại tiếp tục bị hạn chế.
[sửa] Nước Đức trong thời kỳ quân chủ chuyên chế
Sự tàn phá và việc làm giảm dân số của cuộc Chiến tranh 30 năm đã góp phần tăng cường cho sự phát triển của chính sách kinh tế và xã hội được nhà nước điều khiển. Gắn liền với hình thức kinh tế của Chủ nghĩa Trọng thương là sự thành hình của hình thức cai trị quân chủ chuyên chế theo gương của Louis XIV.
Vương quốc Phổ bắt đầu vươn lên từ năm 1640 dưới thời của Friedrich Wilhelm. Năm 1701 Tuyển hầu Friedrich III tự xưng là Friedrich I, vua của nước Phổ. Vương quốc Phổ vươn lên dẫn đến cuộc tranh chấp tay đôi giữa Áo và Phổ, việc đã quyết định sự phát triển của nước Đức cho đến năm 1866.
Dưới thời của hoàng đế dòng họ Habsburg là Leopold I, Đế chế cùng một lúc đã bị đe dọa từ phía người Osman và từ ý muốn bành trướng của Pháp dưới thời Louis XIV. Năm 1683 hoàng đế với sự ủng hộ của các hầu tước người Đức và vua Ba Lan Jan III Sobieskie, người đã chiến thắng Kara Mustafa trong Trận Kahlenberg, đã có thể đánh thắng người Thổ Nhĩ Kỳ trước thành phố Wien và trục xuất họ ra khỏi Hungary.
Qua việc bầu tuyển hầu của Sachsen là Friedrich August I lên làm vua Ba Lan năm 1697, giữa Sachsen và Ba Lan đã có liên kết cho đến năm 1763, chỉ bị gián đoạn bởi cuộc Đại chiến Bắc Âu và Chiến tranh Thừa kế Ngai vàng Ba Lan. Cũng như thế, giữa Hannover và nước Anh cũng đã có liên kết tương tự. Việc dòng họ Habsburg Tây Ban Nha tuyệt tự đã làm cho cuộc Chiến tranh Thừa kế Tây Ban Nha bùng nổ vào năm 1701, cuộc chiến mà với cái chết của Joseph I đã mang lại cho dòng họ Habsburg một bước ngoặt không tốt đẹp nhưng cũng đã làm lay chuyển các thế lực ở Pháp. Mặc dù thế, dòng họ Habsburg ở Áo vẫn trở thành thế lực lớn trong Châu Âu dưới thời của Leopold I và Joseph I.
Việc dòng họ Habsburg ở Áo chấm dứt với Hoàng đế Karl VI là người con trai cuối cùng của dòng họ đã dẫn đến cuộc Chiến tranh Thừa kế Áo. Karl VII thuộc dòng dõi Wittelsbach được bầu làm tân vương. Vua Phổ Friedrich II xâm chiếm Schlesien là đất của họ Habsburg. Con gái của Karl VI, Maria Theresia đã có thể bảo vệ được vương miện cho vị hôn phu của mình là Franz I với sự giúp đỡ của Anh Quốc. Thế nhưng vào năm 1763 bà kết cuộc đã mất Schlesien về tay Phổ trong cuộc Chiến tranh Bảy Năm.
Thời kỳ Khai Sáng bắt đầu trong nước Phổ dưới thời Friedrich II và trong nước Áo dưới thời của Hoàng đế Joseph II nhưng không dẫn đến những cuộc cải tổ có thể lay chuyển được quyền lực phong kiến. Anh em của Joseph và là người kế thừa, Leopold II, đã lại phải hủy bỏ một phần các cải tổ trong phần nước Áo thừa tự.
[sửa] Từ thế kỷ 19 cho đến Đệ nhất thế chiến
[sửa] Chiến tranh Giải phóng chống Napoléon (1789-1815)
- Đọc bài chính về Chiến tranh Giải phóng (Đức)
Tiếp theo sau cuộc Cách mạng Pháp là liên minh giữa Phổ và Áo chống lại nước Pháp năm 1791. Sau một vài thành công ban đầu, liên minh bị đẩy lùi về thế thủ sau khi thất trận Valmy trong tháng 9 năm 1792. Tiếp theo sau đó là bốn cuộc chiến tranh khác chống lại nước Pháp cho đến 1809.
Năm 1799 Napoléon I thu tóm lấy quyền lực về tay ông. Nước Áo phải nhượng phần đất Hà Lan của Áo. Các vùng tả ngạn sông Rhein cũng thuộc về Pháp sau Hòa ước Lunéville năm 1801. Đổi lại, các hầu tước Đức nhận vùng đất hữu ngạn sông Rhein. Ngoài ra Napoléon đã nâng Bayern, Sachsen và Württemberg lên thành vương quốc.
Năm 1805 nước Áo thua Trận Ba Hoàng đế ở Austerlitz (Trận Austerlitz) và phải nhường các vùng đất Thượng Ý về cho Vương quốc Ý và hai vùng đất Vorarlberg và Tirol về cho Bayern. Khi 16 hầu tước Đức quy tụ lại thành Liên minh Rhein (Rheinbund) năm 1806, Hoàng đế Franz II phải từ bỏ vương miện hoàng đế Đức dưới áp lực của Napoléon sau khi thành lập Đế chế Áo năm 1804 để có thể đứng ngang hàng với Napóleon. Điều này đồng nghĩa với việc chấm dứt Thánh Chế La Mã Dân tộc Đức sau 842 năm tồn tại.
Vào ngày 16 tháng 10 năm 1806 Phổ thua Trận Jena-Auerstedt. Quân đội Napoléon tiến vào Berlin. Trong Hòa ước Tilsit 1807 Phổ đã mất đi phân nửa các vùng đất đã lấy được sau cuộc chia cắt Ba Lan lần thứ hai và lần thứ ba về cho Công quốc Warsaw và chỉ nhờ vào sự can thiệp của Nga mà vẫn còn tồn tại như là một quốc gia. Áo cũng phải nhượng các phần đất đang chiếm đóng sau khi chia cắt Ba Lan lần thứ ba về cho Công quốc Warsaw. Một cuộc nổi dậy ở Tirol (Andreas Hofer) đã bị Napoléon dập tan.
Dưới sự lãnh đạo của Heinrich Friedrich Karl Freiherr của Stein và Karl August Hầu tước của Hardenberg, một phong trào cải cách xuất hiện trong Vương quốc Phổ giữa 1807 và 1813 (Cải cách Phổ). Quân đội được cải tổ bởi Gerhard của Scharnhorst và August Bá tước Neidhardt của Gneisenau và hệ thống giáo dục bởi Wilhelm von Humbolt.
Sau chiến bại của Napoléon trong cuộc chinh chiến Nga năm 1812, tại Phổ đã có nhiều cuộc nổi dậy. Khi vị tướng Phổ Yorck của Wartenburg tự ý thỏa thuận ngưng chiến với Nga trong tháng 12 năm 1812, dưới áp lực của quần chúng, vua Phổ liên minh với nga hoàng chống lại Pháp.
Sau khi Anh, Thụy Điển và Áo cùng tham gia liên minh, Pháp thua Trận Leipzig mang tính quyết định vào tháng 10 năm 1813. Các quốc gia của Liên minh Rhein đứng về phía của liên minh mới. Các cuộc chiến chống Napoléon đã dẫn đến một niềm tự hào quốc gia mới trong nước Đức.
Mùa xuân năm 1814 quân đội liên minh kéo vào Paris. Napoléon bị bắt buộc phải thoái vị. Khi lại giành lấy được quyền lực vào năm 1815 trong nước Pháp, quân đội liên minh cuối cùng đã chiến thắng Napoléon trong Trận Waterloo vào ngày 18 tháng 6 năm 1815.
[sửa] Liên minh Đức: Thời kỳ tái kiến thiết
- Đọc bài chính: Liên minh Đức
Hội nghị Wien dưới sự lãnh đạo của Metternich đã mang lại một trật tự mới cho châu Âu. Mục đích của Hội nghị Wien là việc bảo vệ hòa bình lâu dài bằng cách tạo nên một cân bằng giữa các thế lực lớn nhưng cũng có mục đích tái kiến thiết lại hệ thống chính trị cũ. Áo, Phổ và Nga trong Liên minh Thần thánh đã thỏa thuận sẽ chống lại tất cả các phong trào mang tính quốc gia dân tộc và cách mạng.
Phổ nhận lại vùng đất từ việc chia cắt Ba Lan lần thứ hai cộng với Danzig, Rheinland, Westfalen và vùng phía Bắc của Sachsen, Áo giữ được vùng đất từ cuộc chia cắt Ba Lan lần thứ nhất (Galicia), tự nguyện bỏ vùng đất Hà Lan thuộc Áo và nhận thay vào đấy là Veneto, Lombardia và nhiều phần đất khác trên Bán đảo Balkan. Pháp giữ được vùng Elsass. Ngoài ra Liên minh Đức (Deutscher Bund) được thành lập bao gồm 39 hầu tước độc lập, trong đó có cả vua của Anh, Đan Mạch và Hà Lan.
Cơ quan có thẩm quyền ra nghị định của Liên minh Đức là Quốc Hội Liên Bang (Liên minh Đức) (Bundestag (Deutscher Bund)), hội họp tại Frankfurt am Main do Áo làm chủ tọa. Ý nguyện muốn tạo nên một quốc gia dân tộc Đức thống nhất của quần chúng đã không được các hầu tước xem xét đến.
Sau khi nhà văn August von Kotzebue bị giết chết trong năm 1819 Metternich đã ra Quyết định Karlsbad cấm các hội sinh viên và tất cả các tổ chức chính trị khác, đồng thời tiến hành việc kiểm duyệt toàn diện. Thế nhưng cuối cùng ông cũng không thể ngăn chận được việc phong trào dân tộc Đức lại tiếp tục vững mạnh trong thời gian của cái được gọi là Thời trước tháng Ba (Vormärz). Năm 1817 rất nhiều sinh viên đã tụ họp tại Lễ hội Wartburg. Được cổ vũ bởi cuộc Cách mạng tháng Bảy trong nước Pháp, phong trào đã đạt đến một đỉnh cao mới trong Lễ hội Hambach từ 27 tháng 5 đến 30 tháng 5 năm 1832 với 30.000 người tham gia.
Về mặt kinh tế, nước Đức đã được thống nhất bởi Liên minh Thuế quan Đức được thành lập vào ngày 1 tháng 1 năm 1834. Công nghiệp hóa đang bắt đầu và việc xây dựng các tuyến đường sắt đầu tiên đã làm cho nền kinh tế tăng trưởng đáng kể.
[sửa] Cách mạng tháng Ba năm 1848
- Đọc bài chính về Cách mạng tháng Ba
Cách mạng tháng Hai năm 1848 trong nước Pháp đã dẫn đến Cách mạng tháng Ba trong các quốc gia Đức. Tại Áo đã có nhiều cuộc chiến trên đường phố. Metternich từ chức vào ngày 13 tháng 3 và chạy trốn sang Anh quốc.
Hoàng đế Ferdinand I ban hành hiến pháp trong tháng 4 năm 1848 và cho phép người dân có thể tổ chức lực lượng vũ trang tự bảo vệ. Tại Hungary, Ý và các lãnh thổ Slavơ đã có nhiều cuộc nổi dậy nhưng đều bị quân đội của hoàng đế dập tắt.
Dưới áp lực của quần chúng, vua Phổ Friedrich Wilhelm IV cho phép hoàn thành hiến pháp và cho phép người dân có quyền tự do báo chí và tự do tụ họp. Các quốc gia nhỏ như Baden đã cố gắng ngăn ngừa các cuộc bạo loạn bằng cách triệu tập nhiều nhân vật của phái tự do và phái dân tộc tham gia chính phủ. Mặc dù vậy, trong thời gian tiếp theo sau đó của cuộc Cách mạng, chính Baden và Sachsen đã trở thành trung tâm của các cuộc nổi dậy mang tính dân chủ quá khích.
Vào đầu tháng 5, gần như trong toàn bộ các quốc gia đều tổ chức bầu cử Đại hội Quốc gia Frankfurt (Frankfurter Nationalversammlung - tức Quốc Hội). Thế nhưng chỉ trong 6 quốc gia là được quyền bầu cử trực tiếp. Trong tất cả các quốc gia còn lại, một phương cách bầu gián tiếp thông qua các ủy viên bầu cử trung gian đã được áp dụng.
Thành phần trong quốc hội bao gồm cả những người theo chế độ quân chủ chuyên chính bảo thủ lẫn những người theo chế độ tự do và cộng hòa. Trong khi tầng lớp trí thức và quần chúng có học thức chiếm tỷ lệ cao thì công nhân và nông dân lại không có đại diện trong quốc hội.
Vào ngày 18 tháng 5 một chính phủ trung tâm tạm thời được thành lập và được các hầu tước Đức công nhận. Thế nhưng chính phủ này lại gần như không có quyền lực vì không có quân đội, cảnh sát và nhân viên nhà nước riêng.
Quốc hội phải quyết định về ranh giới của một quốc gia dân tộc Đức trong tương lai. Đầu tiên, cái gọi là Giải pháp Đức Lớn được ưu tiên lựa chọn. Thế nhưng vì Áo chỉ đồng ý khi giải pháp bao hàm toàn bộ lãnh địa nên cuối cùng Giải pháp Đức Nhỏ được lựa chọn, dự kiến việc thành lập một quốc gia Đức loại trừ Áo.
Vào ngày 28 tháng 3 năm 1849 Hiến pháp Nhà thờ Thánh Phao-lô (Paulskirchenverfassung) được thông qua, dự kiến một quốc gia liên bang với chính phủ trung tâm dưới sự lãnh đạo của một hoàng đế có quyền thừa kế và một Quốc hội Đế chế (Reichstag) đóng vai trò hành pháp. Thêm vào đấy quyền bầu cử chung phổ thông được thỏa thuận.
Sau khi vua Phổ Friedrich Wilhelm IV từ chối vương miện hoàng đế vào ngày 2 tháng 4, phần lớn các quốc gia Đức đều triệt hồi các nghị sĩ của họ từ Frankfurt. Các cuộc nổi dậy tại Dresden, Pfalz và Baden với mục đích bắt buộc phải hiện thực hiến pháp đều bị dập tắt. Những người cách mạng cuối cùng đã đầu hàng vào ngày 23 tháng 7 tại Rastatt. Hiến pháp chưa từng bao giờ có hiệu lực. Rất nhiều người bị truy nã về chính trị sau đấy đã rời bỏ quê hương, đặc biệt là sang Mỹ.
[sửa] Thời gian phản cách mạng và các cuộc chiến tranh thống nhất
Các nhượng bộ trong thời gian Cách mạng đều bị hủy bỏ. Mặt khác, một số thành quả như Hiến Pháp và quyền tự do hành nghề vẫn được bảo tồn.
Năm 1850 Liên minh Đức (Deutscher Bund) được tái thành lập. Sau khi tổ chức chính trị được phép thành lập năm 1860, nhiều đảng phái và công đoàn đã thành hình. Năm 1863 Ferdinand Lassalle thành lập Liên hiệp Công nhân Đức Phổ thông (Allgemeine Deutsche Arbeiterverein), đảng mà cuối cùng đã hòa nhập vào Đảng Xã hội Dân chủ Đức (Sozialdemokratische Partei Deutschlands – SPD) vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.
Xung đột Hiến pháp Phổ bắt đầu vào năm 1859, dẫn đến việc bổ nhiệm Otto von Bismarck vào cương vị thủ tướng Phổ và tăng cường quyền lực của nhà vua đối với quốc hội năm 1862.
Năm 1864 cuộc chiến tranh của Phổ và Áo chống lại Đan Mạch bùng nổ do Đan Mạch xâm chiếm Schleswig. Với sự đồng ý của các thế lực lớn châu Âu, hai quốc gia Đức tái chiếm lĩnh các công quốc Holstein và Schleswig.
Phổ giành phần thắng lợi trong cuộc Chiến tranh chống lại nước Áo tiếp theo đấy vào năm 1866, thôn tính Hannover, Nassau, Kurhessen, Hessen-Homburg, Schleswig-Holstein và Frankfurt. Thêm vào đó, Liên minh Bắc Đức (Norddeutscher Bund) dưới sự lãnh đạo của Phổ được thành lập. Vì thế nước Áo ly khai ra khỏi Đức. Nền độc lập của Bayern, Württemberg và Baden được công nhận dưới áp lực của Pháp.
Tiếp theo đấy là căng thẳng giữa Pháp và Phổ. Leopold của Hohenzollern-Sigmaringen ứng cử ngai vàng Tây Ban Nha là nguyên cớ cho cuộc Chiến Tranh Đức-Pháp 1870/1871. Napoléon III khiêu khích cuộc chiến bằng cách đòi các vùng đất ở sông Rhein và Bismarck phản ứng với bức Điện báo Ems (Emser Depesche). Sau khi Pháp tuyên chiến, Phổ đã có thể lôi kéo tất cả các quốc gia Đức và các thế lực lớn còn lại của châu Âu về phía mình. Nước Pháp của Napoléon III bị bắt buộc phải đầu hàng qua chiến thắng của Phổ ở Sedan. Sau đấy, một chính phủ cộng hòa được thành lập tại Paris, phủ nhận các yêu sách của Phổ.
Cuộc chiến vì thế mà lại được tiếp tục và chỉ chấm dứt vào năm 1871 khi Pháp đầu hàng. Trong Hòa ước Frankfurt am Main, nước Pháp buộc phải từ bỏ vùng Elsass-Lothringen và phải trả tiền bồi thường chiến tranh.
Nhờ vào một số nhân nhượng, Bismarck đã có thể thúc đẩy được các quốc gia Nam Đức gia nhập Liên minh Bắc Đức. Lễ thành lập Đế chế Đức được tiến hành vào ngày 18 tháng 1 năm 1871 trong Đại Sảnh Gương của Cung điện Versailles. Vua Phổ nhận danh hiệu Hoàng đế Đức.
[sửa] Đế chế Đức
- Đọc bài chính về Đế chế Đức.
Hiến pháp Đế chế Đức năm 1871 nhấn mạnh đến yếu tố quân chủ, vì thế mà tương lai của nước Đức phụ thuộc chính vào tài năng của hoàng đế. Phổ chiếm trên hai phần ba diện tích và dân số, do vậy mà có quyền phủ quyết khi thay đổi hiến pháp trong quốc hội liên bang.
Bismarck theo đuổi chính sách thay đổi đảng liên minh. Trong khuôn khổ của cuộc Đấu tranh Văn hóa (Kulturkampf) 1871 đến 1886 chống lại Nhà Thờ Công giáo, Bismarck đã liên lết với những người theo đường lối tự do. Mặc dù nhiều biện pháp lại bị hủy bỏ sau cuộc Đấu tranh Văn hóa nhưng một số thành quả vẫn còn tồn tại, thí dụ như hôn nhân dân sự và việc nhà nước quản lý và giám sát hệ thống giáo dục.
Phe đối địch kế tiếp của Bismarck là những người Chủ nghĩa Xã hội. Bismarck đã lợi dụng dư luận công chúng sau vụ mưu sát Hoàng đế Wilhelm I để thông qua Đạo luật dành cho người theo Chủ nghĩa Xã hội (Sozialistengesetze). Thế nhưng chúng cũng không ngăn cản được việc các ý tưởng của Chủ nghĩa Xã hội đã lan truyền rộng rãi.
Song song với việc này, Bismarck đã cố gắng tác động chống lại việc quá khích hóa của công nhân bằng nhiều đạo luật về xã hội. Vì thế, bảo hiểm y tế bắt đầu được triển khai vào năm 1883, bảo hiểm tai nạn năm 1884 và bảo hiểm hưu năm 1889. Thế nhưng Bismarck đã phủ quyết đã những đòi hỏi khác của phái Xã hội Dân chủ.
Về mặt kinh tế, nhờ vào có một khu vực kinh tế thống nhất hình thành nhờ vào việc thành lập Đế chế Đức và được tạo điều kiện thuận lợi thông qua việc trả tiền bồi thuờng chiến tranh của Pháp mà nền kinh tế tăng trưởng rất nhanh. Thế nhưng việc này lại dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1873.
Về mặt đối ngoại Bismarck theo đuổi một chính sách cân bằng lực lượng giữa các thế lực lớn. Do vươn lên trở thành thế lực lớn nhất trên lục địa châu Âu, nước Đức đã làm cho các nước láng giềng lo ngại. Để ngăn cản các thế lực lớn còn lại liên minh với chau chống Đức, Bismarck đã áp dụng một chính sách ngoại giao khéo léo để xây dựng một liên minh có mục đích cô lập nước Pháp.
Nhằm giảm bớt nỗi lo ngại của các thế lực lớn còn lại, trong cuộc Khủng hoảng chiến tranh trước mắt (Krieg-in-Sicht-Krise) năm 1875 Bismarck đã từ bỏ đòi hỏi mở rộng lãnh thổ nhưng năm 1884 lại yêu cầu cho phép thương gia Đức chiếm lĩnh thuộc địa dưới sự bảo hộ của Đế chế. Thế nhưng các thuộc địa này không có tầm quan trọng lớn về mặt kinh tế.
Wilhelm I mất trong Năm Ba Hoàng đế (Dreikaiserjahr) 1888 và Wilhelm II kế thừa cha của ông là Friedrich III, người chỉ cai trị 99 ngày do mang trọng bệnh. Khi Wilhelm II bãi nhiệm Bismarck năm 1890, chính sách đối ngoại của Đức có nhiều thay đổi. Ngược với các hoàng đế trước đó, vị hoàng đế mới tự nắm lấy quyền điều hành chính sách ngoại giao. Việc này đã dẫn đến việc nước Đức ngày càng bị cô lập.
Chính sách đối nội mang dấu ấn của thay đổi cấu trúc và vấn đề xã hội. Thủ tướng Đế chế Leo von Caprivi (1890-1894) đi theo chiều hướng cải tổ xã hội. Thế nhưng các cải tổ khác về chính trị lại thất bại.
Dưới thời thủ tướng Chlodwig zu Hohenlohe-Schillingsfürst (1894-1900), về mặt đối nội mặc dù có thể ban hành được Bộ Luật Dân sự (Đức) (Bürgerliches Gesetzbuch) nhưng từ 1886 mâu thuẫn với phái Xã hội Dân chủ lại càng thêm trầm trọng (Dự Luật Trại giam – Zuchthasvorlage), về mặt đối ngoại, đây là thời gian bắt đầu chính sách đế quốc trên thế giới của Đức với những cố gắng thân thiện với Nga trong khi quan hệ Đức-Anh ngày càng xấu đi. Người thủ tướng già gần như không thể cưỡng lại được sự độc đoán của hoàng đế.
Vị thủ tướng kế nhiệm Berhard von Bülow (1900-1909) công khai ủng hộ các mong muốn của hoàng đế. Quan hệ với Anh và Nga tiếp tục xấu đi. Theobald von Bethmann Hollweg (1909-1917), vị thủ tướng kế tiếp, cố gắng cân bằng quan hệ với nước Anh nhưng đã không có thể phá vỡ được hệ thống liên minh. Anh quốc đã có thể giảng hòa với Pháp trong mâu thuẫn về thuộc địa và vấn đề của bán đảo Balkan đã đưa Nga lên ngang hàng với các cường quốc phía Tây. Áo-Hung và Đế quốc Ottoman liên kết với Đế chế Đức.
Cuối cùng, việc người kế thừa ngai vàng của Áo, Franz Ferdinand, bị giết chết vào ngày 28 tháng 6 năm 1914 tại Sarajevo đã làm bùng nổ Đệ nhất thế chiến. Không những ảnh hưởng của giới chính trị mà ngay cả quyền lực của hoàng đế cũng giảm đi rõ rệt, trên thực tế ban chỉ huy quân đội tối cao dưới quyền của Paul von Hindenburg đã nắm quyền điều hành. Trong khi chiến thắng ở mặt trận phía đông, tình hình tiếp tế cho mặt trận phía tây ngày càng tồi tệ đi. Tháng 10 năm 1918, khi một lần nữa phải ra khơi đối địch với Hải quân Hoàng gia (Anh), thủy thủ của hạm đội Đức đã nổi loạn.
Chỉ trong vài ngày, cuộc nổi dậy của những người thủy thủ lan truyền đi khắp trong nước Đức và đã trở thành cuộc Cách mạng tháng Mười một. Vào ngày 9 tháng 11, thủ tướng Đế chế Max von Baden tuyên bố hoàng đế thoái vị. Wilhelm II tuân phục quyết định này và lưu vong ra nước ngoài. Max von Baden trao quyền lực chính phủ lại cho Friedrich Ebert. Buổi chiều ngày hôm đó Philipp Scheidemann tuyên bố thành lập nền cộng hòa.
[sửa] Thế kỷ 20
- Đọc bài chính: Nước Đức trong thế kỷ 20
[sửa] Cộng hòa Weimar (1918-1933)
- Đọc bài chính: Cộng hòa Weimar
Vào ngày 10 tháng 11 năm 1918 Hội đồng Ủy viên Nhân dân (Rat der Volksbeauftragten) được thành lập, đóng vai trò chính phủ lâm thời. Vào ngày 11 tháng 11 chiến sự tạm ngừng do có điều đình ngưng chiến. Đại hội Xô viết (Rätekongress) được tổ chức ở Berlin vào ngày 16 tháng 12 năm 1918.
Nhiều cải cách được thực hiện, người phụ nữ có quyền bầu cử và thời gian làm việc trong một ngày được giới hạn ở 8 tiếng. Cuộc Khởi nghĩa Spartakus trong tháng 1 năm 1919 đã bị các lực lượng bán quân sự (Freikorps) dập tắt. Hai người cộng sản lãnh đạo là Rosa Luxemburg và Karl Liebknecht bị giết chết. Cho đến giữa năm 1919 tất cả các cố gắng thành lập nền Cộng hòa Xô viết (Räterepublik) Xã hội Chủ nghĩa khác đều bị lực lượng quân đội đế chế và các lực lượng bán quân sự dùng vũ lực dập tắt, cuối cùng là Cộng hòa Xô viết München vào ngày 2 tháng 5 năm 1919.
Đại hội Quốc gia (tiếng Pháp: Assemblée nationale) được tiến hành vào ngày 19 tháng 1. Đại hội không được tổ chức ở Berlin vẫn còn không yên ổn mà ở tại Weimar. Đại hội Quốc gia bầu Friedrich Ebert là Tổng thống Đế chế (Reichspräsident) và Philipp Scheidemann là Thủ tướng Đế chế (Reichskanzler). Theo Hiến pháp Weimar, Đế chế Đức là một nước dân chủ nghị viện. Tuy vậy Hiến pháp cũng đã dự kiến một tổng thống có nhiều quyền lực như là người thay thế hoàng đế và có thể được thay đổi bởi đa số.
Trong Hiệp định Versailles vào ngày 18 tháng 6 nước Đức phải chịu từ bỏ nhiều vùng đất cũng như phải trao thuộc địa lại dưới quyền của Hội Quốc Liên. Đức và Áo bị cấm không được thống nhất. Đức và các nước liên minh được cho là phe duy nhất đã có lỗi gây ra chiến tranh và phải đáp ứng các yêu cầu bồi thường chiến tranh. Saarland được đặt dưới quyền của Hội Quốc Liên và Rheinland là vùng phi quân sự. Ngoài ra còn có rất nhiều hạn chế được đặt ra cho quân đội Đức.
Không có cải tổ dân chủ trong quân đội, tư pháp và hành chánh, Hiệp định Versailles được cảm nhận như một cưỡng ép nhục nhã và Truyền thuyết lưỡi dao đâm sau lưng (Dolchstoßlegende) là di sản nặng nề cho quốc gia Đức mà còn được gọi là nước Cộng hòa không có người Cộng hòa.
Trong năm 1920 có cuộc Đảo chính Kapp và nhiều vụ ám sát chính trị. Các đảng quá khích đã đạt được nhiều phiếu trong các cuộc bầu cử Quốc hội Đế chế. Thể theo Hiệp định Versailles, nhiều cuộc trưng cầu dân ý đã được tiến hành trong các vùng đất biên giới quyết định về tính phụ thuộc lãnh thổ trong tương lai. Schleswig được chia cắt giữa Đức và Đan Mạch sau 2 lần trưng cầu dân ý. Bắc Schleswig lại thuộc về Đan Mạch trong khi Nam Schleswig vẫn là lãnh thổ của nước Đức. Sau cuộc trưng cầu dân ý ngày 11 tháng 7, các tỉnh Allenstein và Marienwerder vẫn thuộc Phổ. Eupen và Malmedy (Aachen) trở thành lãnh thổ của Bỉ sau khi đa số người dân đồng ý trong lần ký tên vào một danh sách công khai. Năm 1921 Quân đội Đế chế (Reichswehr) được thành lập. Oberschlesien được chia cắt giữa Đức và Ba Lan sau cuộc trưng cầu dân ý mang nhiều dấu ấn của bạo lực. Đức và Liên bang Xô viết thành lập quan hệ ngoại giao năm 1922 với Hiệp định Rapallo.
Tháng 1 năm 1923 quân đội Pháp chiếm đóng vùng Ruhr nhằm để đòi số tiền bồi thường chưa được trả. Chính phủ Đế chế đã ủng hộ Cuộc Đấu tranh ở Ruhr bùng nổ ra sau đó. Nạn lạm phát phi mã bắt đầu trong những tháng tiếp theo sau đó và chỉ được chấm dứt bằng một cuộc cải cách tiền tệ.
Bayern trở thành nơi tụ họp của các lực lượng bảo thủ cánh hữu. Cuộc Đảo chính Hitler-Ludendorff đã diễn ra trong bầu không khí đó. Adolf Hitler tuy bị bắt và bị tuyên xử nhưng lại được trả tự do chỉ vài tháng sau đấy.
Một thời kỳ tương đối ổn định bắt đầu vào năm 1921. Mặc dù có nhiều xung đột nhưng chế độ dân chủ dường như đã chiến thắng. Việc đổi tiền và các khoảng vay theo Kế hoạch Dawes bắt đầu cho thập niên vàng 1920.
Friedrich Ebert mất vào tháng 2 năm 1925, Paul von Hindenburg được bầu làm người kế nhiệm.
Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Gustav Stresemann cùng với Aristide Briand đã cố gắng theo đuổi chính sách tiếp cận với nước Pháp và sửa đổi Hiệp định Versaille với kết quả là Hiệp định Locarno được ký kết trong năm 1925 và nước Đức gia nhập Hội Quốc Liên năm 1926.
Cuộc Khủng hoảng Kinh tế Thế giới năm 1929 mở đầu cho thời gian chấm dứt Cộng hòa Weimar. Trong mùa hè 1932 con số người thất nghiệp lên đến 6 triệu người. Bắt đầu từ năm 1930 nước Đức được điều hành bởi một chính phủ không có sự ủng hộ của quốc hội.
Tình hình chính trị đi đến quá khích và đã có nhiều cuộc chiến trên đường phố giữa Đảng Công nhân Đức Quốc gia Xã hội Chủ nghĩa và Đảng Cộng sản Đức. Năm 1931 các lực lượng cánh hữu liên kết với nhau trong Mặt trận Harzburg, Đảng Công nhân Đức Quốc gia Xã hội Chủ nghĩa trở thành phái mạnh nhất trong cuộc bầu cử Quốc hội Đế chế vào ngày 31 tháng 7 năm 1932. Thủ tướng Đế chế Kurt von Schleicher tuyên bố từ chức vào ngày 28 tháng 1 năm 1933.
[sửa] Nước Đức trong thời kỳ của Chủ nghĩa Xã hội Quốc gia (1933-1945)
Tổng thống Đế chế Paul von Hindenburg bổ nhiệm Adolf Hitler vào cương vị Thủ tướng Đế chế vào ngày 30 tháng 1 năm 1933, việc đánh dấu sự kết thúc của Cộng hòa Weimar và bắt đầu chế độ độc tài của Chủ nghĩa Xã hội Quốc gia, một biến thể của Chủ nghĩa Phát xít. Hindenburg giải thể Quốc hội Đế chế và tổ chức bầu cử mới. Sau Vụ cháy Quốc hội Đế chế vào ngày 28 tháng 2 năm 1933, Pháp lệnh khẩn cấp của Tổng thống Đế chế Hindenburg đã hạn chế các quyền cơ bản. Đảng Cộng sản Đức bị cấm hoạt động và nhiều đảng viên đã bị bắt giam. Cái gọi là Đạo luật Toàn quyền (Ermächtigungsgesetz) trao cho chính phủ thẩm quyền ban hành luật pháp không hạn chế. Chỉ sau đấy một thời gian ngắn, các đảng phái dân chủ còn lại cũng bị cấm hoạt động nếu như không tự giải tán. Các trại tập trung đầu tiên dùng để giam giữ các nhân vật chống đối Chủ nghĩa Xã hội Quốc gia, đặc biệt là những người Cộng sản và Xã hội Dân chủ, được thành lập.
Trong những tháng kế tiếp theo đó, các tiểu bang còn lại cũng như là giới báo chí và công đoàn đều bị đồng bộ hóa. Việc tẩy chay các cửa hàng của người Do Thái và khai trừ nhân viên nhà nước là người Do Thái bắt đầu trong tháng 4. Trong tháng 6 và tháng 7 các nhà thờ Tin Lành được kết hợp lại thành Nhà thờ Đế chế dưới sự lãnh đạo của một tổng giám mục đế chế. Những người được gọi là người Ki tô giáo Đức tuyên truyền cho một Phúc Âm "không có người Do Thái" và cho sự "phục tùng lãnh tụ".
Trong tháng 9 đã thành hình một phong trào chống đối trong nội bộ của nhà thờ Tin Lành: Liên minh mục sư (Pfarrernotbund). Thành viên của liên minh này là những người Tin Lành không tán thành với sự can thiệp của nhà nước vào nhà thờ Tin Lành và một phần cũng không tán thành Chủ nghĩa Xã hội Quốc gia (Dietrich Bonhoeffer, Martin Niemöller, Gustav Heinemann và nhiều người khác). Nước Đức ký kết với Tòa thánh Vatican một giao ước bảo đảm vị trí của các giám mục công giáo trong nước Đức và trên thực tế là bảo đảm việc nhà thờ công giáo không phê bình Chủ nghĩa Xã hội Quốc gia.
Năm 1934 nền tư pháp bị đồng bộ hóa. Sau cái được cho là vụ Đảo chính Röhm, Hitler cũng đã bóp ngẹt tất cả các phe đối lập có thể có ngay trong nội bộ của Đảng Công nhân Đức Quốc gia Xã hội chủ nghĩa bằng nhiều cuộc ám sát mang tính chính trị – người thủ tướng đế chế tiền nhiệm Kurt von Schleicher cũng đã bị giết chết cùng với vợ của ông – và tước quyền lực của lực lượng SA có lợi cho quân đội. Ngoài ra, sau cái chết của Hindenburg vào ngày 2 tháng 8 Hitler cũng đã được bổ nhiệm vào cương vị "lãnh tụ", thủ tướng đế chế và tổng chỉ huy quân đội. Quân đội đế chế phải tuyên thề phục tùng Hitler. Nhân viên nhà nước cũng phải tuyên thệ phục tùng "lãnh tụ" vì thế mà giới trí thức chống đối chế độ đã mất việc làm.
Trong thời gian sau đó, toàn bộ cuộc sống xã hội đã bị các tổ chức quốc xã như Thiếu niên Hitler hay Mặt trận Lao động Đức thâm nhập. Nhiều biện pháp, thí dụ như việc xây đường cao tốc, những việc mà đã được các chính phủ tiền nhiệm chuẩn bị hay đã bắt đầu, đã khắc phục nạn thất nghiệp. Sau đấy công cuộc chuẩn bị cho chiến tranh đã tạo tăng trưởng cho nền kinh tế, thế nhưng vì ưu tiên cho việc vũ trang nên mức sống không tăng cao.
Sau một cuộc trưng cầu dân ý năm 1935, Saarland lại hòa nhập vào Đế chế Đức. Trong Đại hội đảng (Reichsparteitag) Các đạo luật chủng tộc Nürnberg (Nürnberger Gesetze) được thông qua, nêu lý do cho việc loại trừ và cô lập người Do Thái.
Năm 1936 quân đội đế chế hành quân vào Rheinland nguyên là vùng phi quân sự và vì thế là đã bẻ gãy Hiệp định Versailles. Trong tháng 8 Thế Vận Hội được tổ chức tại Berlin, việc được Hitler lợi dụng làm sân khấu để tuyên truyền đến công chúng thế giới. Một kế hoạch bốn năm từ năm 1936 dự định sẽ đưa nước Đức đến tình trạng sẵn sàng cho chiến tranh chậm nhất là vào năm 1940. Cùng với nước Ý của Mussolini, chế độ Hitler đã ủng hộ tướng phát xít Francisco Franco trong cuộc Nội chiến Tây Ban Nha chống lại nền cộng hòa ở tại đấy, ngay cả bằng quân sự. Đối với Hitler, cuộc Nội chiến Tây Ban Nha là cơ hội thử nghiệm khả năng đánh trận của giới quân sự của ông cho trường hợp có chiến tranh.
Năm 1938 Hitler đã sáp nhập được nước Áo và với Hiệp định München là vùng đất Sudetenland vào nước Đức. Sau đó Josef Stalin đã bí mật ký kết với Hitler Hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau. Vào ngày 9 tháng 11 người Quốc Xã đã tạo dựng Đêm tàn sát người Do Thái (Reichspogromnacht) và châm lửa đốt cháy nhiều nhà thờ Do Thái. Thành viên của các lực lượng SA và SS giả mạo làm thường dân đã đánh đập và giết chết nhiều người Do Thái ngay trước mắt của cảnh sát, những người mà đa số đã im lặng.
Ngày 1 tháng 9 năm 1939 quân đội Đức tiến vào Ba Lan, Đệ nhị thế chiến bùng nổ. Ngày 3 tháng 9, Liên hiệp Anh và Pháp tuyên chiến với Đức. Sau khi quân đội Đức và Hồng quân chiến thắng Ba Lan, phần đất phía tây của đất nước này một tỉnh của Đức trong khi Liên bang Xô viết chiếm đóng phần phía đông.
Chỉ vài tháng sau khi chiến tranh bắt đầu, vào ngày 8 tháng 11 năm 1939, người chiến đấu cô độc Johann Georg Elster đã đánh bom mưu sát Hitler trong một sự kiện tuyên truyền của Quốc Xã trong quán Bürgerbräukeller ở München. Vụ đánh bom đã thất bại do Hitler đã rời căn phòng ngay lập tức sau cuộc nói chuyện, chỉ vài phút trước khi quả bom nổ. Elser bị bắt sau đó ít lâu, bị giam rồi giết chết vào tháng 4 năm 1945 trong trại tập trung Dachau, ngay trước khi chiến tranh chấm dứt.
Trong cái gọi là "chiến tranh sấm sét" (Blitzkrieg) nước Đức đã nhanh chóng chiếm đóng Đan Mạch, Na Uy, các quốc gia Benelux và nước Pháp trong năm 1940. Tiếng tăm của Hitler trong đa số quần chúng Đức đạt đến đỉnh cao. Thế nhưng cuộc xâm chiếm Anh theo kế hoạch (Chiến dịch Hải Sư) lại thất bại vì không quân Đức trong Trận Không chiến Anh đã không hoàn toàn làm chủ được không phận Anh quốc mặc dù đã bỏ bom với cường độ cao các mục tiêu chiến lược (sân bay, trạm rađar, công nghiệp vũ trang không quân).
1940/1941 quân đội Đức đã cùng với Ý, Hungary và Bulgary chiếm Nam Tư và Hy Lạp. Cả hai nước bị chia cắt cho các chế độ độc tài liên minh. Tiếp sau cuộc xâm lược, bắt đầu từ năm 1943 là một cuộc chiến tranh du kích mòn mỏi. Với sự giúp đỡ của Ý, nước Đức gửi Quân đoàn Phi châu (Afrikakorps) đến Libya nguyên là thuộc địa Ý.
Vào ngày 22 tháng 6 Đức xâm lược Liên bang Xô viết. Trong "Chiến dịch Barbarossa" với chiến lược Chiến tranh sấm sét quân đội Đức đã tiến sâu đến Mátxcơva và Leningrad. Thế nhưng trong mùa đông 1941/1942 chiến dịch bắt đầu khựng lại trước Mátxcơva.
Vào ngày 11 tháng 12 năm 1941 Đức tuyên chiến với Mỹ, nước cung cấp hàng hóa cho Anh và từ tháng 7 năm 1941 cho Liên bang Xô viết.
Trong diễn biến của một chiến dịch tấn công mới ở mặt trận phía đông, quân đội Đức đã tiến đến sông Don và núi Kaukasus. Trận Stalingrad tromg mùa đông 1942/1943 là một trong những bước ngoặt của cuộc chiến. Cho đến cuối năm 1943 Liên bang Xô viết tái chiếm lĩnh nhiều vùng đất. Vào ngày 13 tháng 5 năm 1943 Phe Trục đã phải đầu hàng ở Bắc Phi.
Trong khi đó cuộc Đại đồ sát người Do Thái (Holocaust), việc diệt chủng người Do Thái chưa từng có trong lịch sử được chuẩn bị từ trước, đang được tiến hành. Ngay từ tháng 9 năm 1941 tất cả người Do Thái đều phải mang ngôi sao David (ngôi sao Do Thái) trên người. Sau khi tước đoạt quyền lợi, tài sản, cầm tù và giết chết tập thể thường dân Do Thái, giới lãnh đạo Quốc Xã đã quyết định cái gọi là "giải pháp cuối cùng cho vấn đề Do Thái" trong Hội nghị Wannsee vào tháng 1 năm 1942. Trong những trại hủy diệt đặc biệt được thành lập theo cái gọi là Chương trình Reinhard trong các vùng đất chiếm đóng ở Đông Âu như Auschwitz, Treblinka hay Majdanek, việc giết người Do Thái được tiến hành mang tính công nghiệp hóa. Cho đến khi chiến tranh chấm dứt có vào khoảng 6 triệu người Do Thái ở châu Âu đã bị giết chết, trong đó người Do Thái tại Ba Lan với 3 triệu nạn nhân chiếm tỷ lệ lớn nhất.
Bên cạnh đó là việc giết tập thể những người thuộc các chủng tộc khác mà theo hệ tư tưởng Quốc Xã là người hạ cấp, đặc biệt là người Ba Lan, người Nga và người Roma.
Ngay trước cuộc diệt chủng người Do Thái dưới hình thức công nghiệp hóa sau Hội nghị Wannsee, với cái gọi là Chiến dịch T4 trong khuôn khổ của chương trình "hủy diệt đời sống không có giá trị", những người Quốc Xã đã thử nghiệm phương pháp giết người bằng khí độc ở rất nhiều nhóm người trong những năm từ 1939 đến 1941. Nạn nhân của "chương trình" này là khoảng 100.000 người bị tật nguyền về cơ thể, tâm lý hay thần kinh trong nhiều nhà thương tật nguyền ở Đức. Chỉ nhờ vào hoạt động công khai của giám mục Công giáo thành phố Münster Clemens August Graf von Galen chống lại việc giết những người tật nguyền mà cuối cùng chương trình này đã được chấm dứt.
Từ năm 1939 quân đội Đồng minh bắt đầu dội bom các thành phố Đức, qua đó khoảng 760.000 thường dân đã tử vong. Từ cuối năm 1944 rất nhiều người Đức đã trốn chạy khỏi các vùng đất phía đông trước khi hồng quân tiến vào. Quân đội Xô viết đã chiếm lĩnh nhiều vùng đất Nam Âu trong năm 1944. Vào ngày 6 tháng 6 quân đội Đồng minh đổ bộ vào bờ biển Normandie sau khi đã chiếm lĩnh nước Ý từ phía Nam qua cuộc đổ bộ lên đảo Sicilia. Vào ngày 20 tháng 7 vụ mưu sát và đảo chính chống lại Hitler của một nhóm quân nhân và thành viên của nhóm chống đối (Nhóm Kreisau – Kreisauer Kreis) đã thất bại.
Cuối 1944 đầu 1945 Đồng minh đã quyết định việc chia cắt nước Đức sau chiến tranh. Sau chiến dịch tấn công mùa đông, vào ngày 12 tháng 1 năm 1945 Hồng quân đã chiếm lĩnh Đông Phổ, Pommern và Schlesien. Quân đội Xô viết tiến đến thủ đô Đức trong tháng 4, bắt đầu Trận Berlin. Hitler tự sát vào ngày 30 tháng 4 dưới hầm của phủ thủ tướng đế chế sau khi cử Đô đốc Karl Dönitz làm người kế vị chức vụ tổng thống đế chế và tổng chỉ huy quân đội. Một số nhân vật lãnh đạo khác cũng đã tự sát sau đó: Joseph Goebbels, Heinrich Himmler. Cuối cùng, vào ngày 7 tháng 5 năm 1945 Đại tướng Alfred Jodl – được Dönitz ủy nhiệm – đã ký vào bản tuyên bố đầu hàng vô điều kiện của quân đội Đức.
[sửa] Nước Đức bị chiếm đóng (1945-1949)
- Đọc bài chính: Nước Đức 1945-1949.
Trong ý thức lịch sử của châu Âu và thế giới, chiến thắng nước Đức Quốc Xã vào ngày 8/9 tháng 5 cho đến nay vẫn được kỷ niệm như là ngày giải phóng. Thế nhưng trong quần chúng người Đức thời gian đó, sự giải phóng này được hiểu khác nhau tùy theo quan điểm chính trị. Đối với những người bị bắt giam trong các trại tập trung hay bị truy nã chính trị thì đấy thật sự là một sự giải phóng sau 12 năm dưới chế độ chuyên chế. Đối với phe Đồng minh việc giải phóng nước Đức ban đầu chỉ là một kết quả phụ. Trong chỉ thị JCS 1067 ([1]) vào tháng 4 năm 1945 họ đã khẳng định: "Nước Đức bị chiếm đóng không phải vì mục đích giải phóng mà là như một quốc gia thù địch bị thua trận."
Rất nhiều phụ nữ Đức đã bị hãm hiếp khi Hồng quân tiến quân vào nước Đức. Thế nhưng việc các tổ chức tuyên truyền Xô viết kêu gọi hãm hiếp phụ nữ Đức đã được bác bỏ từ lâu và đã được minh chứng là không có (lời đồn của Bộ Tuyên truyền Đế chế, tháng 11 năm 1944). Trong nước Cộng hòa Dân chủ Đức đề tài Hồng quân hãm hiếp phụ nữ Đức là một đề tài không được nhắc đến.
Các thế lực chiến thắng Mỹ, Anh và Liên bang Xô viết gặp nhau trong Hội nghị Postdam vào trong tháng 7/tháng 8 năm 1945, thỏa thuận các nguyên tắc dân chủ hóa, tẩy trừ Quốc Xã, phi quân sự hóa và phân quyền. Nước Đức được chia thành 4 vùng chiếm đóng. Các vùng đất nguyên thuộc Đức nằm về phía đông của các con sông Oder – Neiße được chuyển giao dưới quyền quản lý của Ba Lan. Vùng Elsass lại thuộc về Pháp. Áo lại phải chia cắt ra khỏi Đức và cũng được chia làm 4 bốn vùng chiếm đóng.
Một cơ quan quản lý chung cho nước Đức, Hội đồng kiểm soát Đồng minh, được thành lập. Thành phố Berlin bao gồm 4 khu vực có một ủy ban quản lý chung của tất cả 4 lực lượng, Sở chỉ huy quân đội Đồng minh. Công cuộc tái kiến thiết và việc thành lập các tiểu bang cũng như các đảng phái dân chủ bắt đầu. Trong tháng 10 năm 1945 Tòa án Nürnberg bắt đầu làm việc.
Các lực lượng chiếm đóng đã đi các con đường khác nhau trong các vùng chiếm đóng của họ, trong đó các lực lượng phía tây (Anh, Pháp và Mỹ) ngày càng có khuynh hướng hợp tác chống lại Liên bang Xô viết vì mâu thuẫn Đông – Tây bắt đầu xuất hiện. Năm 1947 đã có một số cố gắng nhất định để thống nhất về tương lai của toàn bộ nước Đức nhưng chúng đã thất bại. Từ đấy các lực lượng phía Tây đã cố gắng xây dựng một quốc gia Tây Đức trong các vùng chiếm đóng của họ.
Trong khu vực chiếm đóng của Liên bang Xô Viết đường hướng đi đến Chủ nghĩa Xã hội cũng được nhanh chóng thiết lập. Đảng Xã hội Dân chủ Đức và Đảng Cộng sản Đức bị bắt buộc phải thống nhất thành Đảng Xã hội chủ nghĩa Thống nhất Đức và các cương vị then chốt được giao cho những người Cộng sản. Với Ủy ban Kinh tế Đức, một cơ quan tiền quốc gia được thành lập năm 1947 nhận thẩm quyền điều khiển về kinh tế.
Đầu năm 1947 hai vùng chiếm đóng Anh và Mỹ liên kết tạo thành lưỡng vùng chiếm đóng, mãi đến tháng 4 năm 1949 việc mở rộng vùng chiếm đóng này với vùng chiếm đóng của Pháp mới được tiến hành trên hình thức. Kế hoạch Marshall cho việc tái kiến thiết bắt đầu trong năm 1947, thế nhưng vùng phía Đông phải từ chối sự giúp đỡ này dưới áp lực của Liên bang Xô viết. Cùng với Hội đồng Kinh tế Lưỡng vùng một cơ quan tiền quốc gia cũng đã được thành lập, đã là cơ quan quan trọng nhất trong hệ thống hành chánh lưỡng vùng của thời gian 1947-1949.
Vào ngày 10 tháng 6 năm 1948 Đồng minh phía Tây tiến hành đổi tiền trong các khu vực chiếm đóng phía Tây, tạo cơ sở cho Điều kỳ diệu kinh tế sau này. Đối lại tiền tệ riêng được phát hành trong khu vực chiếm đóng của Liên bang Xô viết. Vào ngày 24 tháng 6 các lực lượng chiếm đóng phía Tây cũng phát hành đồng Mark Tây Đức tại Tây Berlin. Liên bang Xô viết trả lời bằng cách phong tỏa Berlin. Gần cả một năm phần phía Tây của thành phố Berlin được Mỹ và Anh cung cấp các loại hàng hóa thiết yếu nhất chỉ bằng cầu hàng không. Liên bang Xô viết bãi bỏ phong tỏa Berlin trong tháng 5 năm 1949 thế nhưng Berlin vẫn là trọng tâm trong các đường lối chính trị của các lực lượng chiến thắng.
Vào ngày 20 tháng 3 năm 1948, để phải đối Hội nghị Sáu Bên tại London, Liên bang Xô viết đã rời bỏ Hội đồng Kiểm soát Đồng minh. Vào ngày 1 tháng 7 năm 1948 các lực lượng chiếm đóng phía Tây trao cho các thủ hiến tiểu bang Hồ sơ Frankfurt với lời yêu cầu tiến hành một hội nghị ban hành hiến pháp. Trong Hội nghị Rittersturz vào tháng 7 năm 1948 nước Cộng hòa Liên bang Đức được quyết định thành lập.
Hội đồng Quốc hội nhóm họp tại Bonn vào ngày 1 tháng 9 và hoàn thành Hiến pháp Đức (Grundgesetz). Sau khi được tất cả các tiểu bang ngoại trừ Bayern và được các lực lượng chiếm đóng phương Tây chấp thuận, Hiến pháp được công bố vào ngày 23 tháng 5 năm 1949. Nước Cộng hòa Liên bang Đức được thành lập.
Vào cuối tháng 5 năm 1949 Đại hội Nhân dân Đức lần thứ ba được tiến hành trong khu vực do Liên bang Xô viết chiếm đóng. Toàn thể các thành viên chấp thuận Hiến pháp Cộng hòa Dân chủ Đức. Vào ngày 7 tháng 10 nước Cộng hòa Dân chủ Đức được thành lập. Nước Đức bị chia cắt từ đấy.
[sửa] Nước Cộng hòa Liên bang Đức (1949-1990)
- Bài chính: Lịch sử Cộng hòa Liên bang Đức
Cuộc bầu cử Quốc hội Liên bang Đức đầu tiên được tiến hành vào ngày 14 tháng 8 năm 1949. Liên minh Dân chủ Thiên Chúa giáo Đức(Christlich Demokratische Union Deutschlands - CDU)/Liên minh Xã hội Thiên Chúa giáo Bayern (Christlich-Soziale Union in Bayern - CSU) trở thành phái mạnh nhất trong Quốc hội. Konrad Adenauer được bầu làm Thủ tướng Liên bang Đức và Theodor Heuss là Tổng thống Liên bang. Trong tháng 11 Hiệp định Petersberg được ký kết giữa Adenauer và Cao Ủy Đồng Minh mở rộng quyền hạn của nước Cộng hòa Liên bang Đức ra khỏi thể chế chiếm đóng. Hiệp định được xem như là bước đầu tiên của nước Cộng hòa Liên bang Đức đi đến một quốc gia tự chủ. Vào ngày 16 tháng 1 năm 1950 việc định lượng khẩu phần lương thực thực phẩm được hủy bỏ.
Chính phủ Adenauer đẩy mạnh việc gia nhập phương Tây, tái vũ trang và thiết lập khuôn khổ chính trị cho Điều kỳ diệu kinh tế trong nước Cộng hòa Liên bang Đức, việc được Kế hoạch Marshall của Mỹ tạo nhiều điều kiện thuận lợi. Chính phủ Adenauer yêu cầu quyền đơn phương đại diện cho nước Đức và cắt đứt quan hệ với các quốc gia công nhận nước Cộng hòa Dân chủ Đức (Thuyết Hallstein). Mặc dù vậy chính phủ Adenauer cũng đã ký kết một hiệp định với Liên bang Xô viết vào năm 1955 để những người tù binh chiến tranh Đức cuối cùng có thể trở về quê hương. Hiệp ước Đức được ký kết vào ngày 26 tháng 5 năm 1952 giữa nước Cộng hòa Liên bang Đức và ba nước Anh, Pháp và Mỹ, bắt đầu có hiệu lực từ năm 1955 sau một vài sửa đổi, quy định về việc chấm dứt tình trạng bị chiếm đóng và mang lại cho nước Đức chủ quyền của một quốc gia độc lập. Nước Cộng hòa Liên bang Đức gia nhập khối NATO và quân đội Cộng hòa Liên bang Đức (Bundeswehr) được thành lập, bất chấp sự phản đối của một phong trào hòa bình rộng khắp.
Năm 1952 Cộng hòa Liên bang Đức là nước đồng thành lập Cộng đồng Than Thép châu Âu, tiền thân của Liên minh châu Âu sau này. Năm 1951, Đảng Đế chế Xã hội chủ nghĩa (Sozialistische Reichspartei - SRP) cực hữu và Đảng Cộng sản Đức, đảng mà cho đến năm 1953 vẫn còn có đại diện trong Quốc hội Liên bang Đức, bị Tòa án Hiến pháp Liên bang Đức tuyên xử cấm hoạt động.
Năm 1957 Saarland lại thuộc về nước Đức. Hiệp ước Roma thành lập Cộng đồng Kinh tế châu Âu trong tháng 3. Trong tháng 11 năm 1959 Đảng Xã hội Dân chủ Đức cuối cùng từ bỏ Chủ nghĩa Marx với Chương trình Godesberg. Năm 1959 Heinrich Lübke được bầu làm Tổng thống Đức kế nhiệm Theodor Heuss.
Cho đến khi Bức tường Berlin được dựng lên năm 1961 hằng trăm ngàn người đã chạy trốn từ nước Cộng hòa Dân chủ Đức sang nước Cộng hòa Liên bang Đức.
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Franz Josef Strauß phải từ chức trong tháng 10 năm 1962 vì Vụ Spiegel. Trong tháng 1 năm 1963 Hiệp ước Elysée giữa nước Cộng hòa Liên bang Đức và Pháp được ký kết, thiết lập cơ sở cho một chính sách hòa giải với quốc gia mà trong lịch sử đã từng được xem là "kẻ thù không đội trời chung" của nước Đức.
Adenauer từ chức vào ngày 15 tháng 10. Người kế nhiệm là Ludwig Erhard, được xem là cha đẻ của Điều kỳ diệu kinh tế. Thế nhưng ông cũng đã từ chức trong năm 1966. Sau đấy Kurt Georg Kiesinger thành lập liên minh lớn từ hai đảng CDU/CSU và SPD, lúc đầu được xem là một giải pháp tạm thời nhưng chính phủ này lại đạt được nhiều thành quả trong các chính sách về kinh tế và đối nội.
Năm 1968 Các đạo luật của Tình trạng khẩn cấp Đức được thông qua. Việc xử lý không đầy đủ quá khứ Quốc Xã, khó khăn trong đào tạo và giáo dục, phong trào chống đối Chiến tranh Việt Nam, phong trào Hippie và trật tự xã hội được cảm nhận là lỗi thời đã mang lại phong trào phản kháng của học sinh sinh viên mà hệ quả là đời sống xã hội và chính trị đã có nhiều thay đổi.
Gustav Heinemann được bầu làm Tổng thống trong tháng 3 năm 1969. Trong tháng 9, sau cuộc bầu cử Quốc hội đã có thay đổi thế lực chính trị, Đảng Xã hội Dân chủ Đức (SPD) và Đảng Dân chủ Tự Do Đức (FDP) thành lập chính phủ liên minh dưới quyền của Thủ tướng Willy Brandt. Chính phủ Brandt theo đuổi một chính sách tiếp cận với các nước thuộc khối Đông Âu mà với việc Quỳ gối tại Warsaw của Brandt vào ngày 7 tháng 12 năm 1970 là một biểu hiện được cả thế giới chú ý. Chính sách Phương Đông của Brandt lúc đầu đã bị chỉ trích cực lực, đặc biệt là trong nước, đến mức Liên minh Dân chủ Thiên Chúa Giáo (CDU) cố bỏ phiếu bất tín nhiệm trong năm 1972.
Chính sách đối nội mang dấu ấn của việc tự do hóa hệ thống luật lệ, mở rộng mạng lưới bảo hiểm xã hội và cải cách hệ thống đào tạo. Mùa thu 1973 nước Cộng hòa Liên bang Đức cũng chịu tác động của cuộc khủng hoảng dầu và điều kỳ diệu về kinh tế cuối cùng cũng chấm dứt. Ngày 6 tháng 5 năm 1974 Brandt từ chức do có Vụ Guillaume.
Helmut Schmidt trở thành thủ tướng, Walter Scheel là tổng thống. Đường lối chính trị đối với các nước phía đông được tiếp tục và vào năm 1975 nhờ vào Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu mà chính sách giảm căng thẳng được tiếp tục. Về mặt đối nội, nhà nước Đức phải đối phó với các vấn đề của khủng bố cánh tả từ Phái Hồng quân mà đỉnh cao là Mùa Thu Đức năm 1977. Thế nhưng các Phong trào Hòa bình và Phong trào bảo vệ môi trường cũng là các trọng tâm của thời gian này. Năm 1979 Karl Carstens trở thành Tổng thống.
Liên minh SPD/FDP tan vỡ do có ngày càng có nhiều căng thẳng nội bộ. Vào ngày 1 tháng 10 năm 1982 Helmut Kohl trở thành Thủ tướng qua một cuộc bầu cử bất tính nhiệm. Chính phủ mới của liên minh CDU/CSU-FDP được tái xác nhận qua cuộc bầu cử năm 1983. Lần đầu tiên, Đảng Xanh (Đức), đại diện cho Phong trào Xã hội Mới, vào được Quốc hội Liên bang Đức và đạt đến một trọng lượng nhất định trong Quốc hội.
Năm 1984 Richard von Weizsäcker trở thành Tổng thống Đức. Đầu năm 1984 truyền hình tư nhân bắt đầu được phép hoạt động, cũng cùng trong năm đó là Vụ Flick. Đạo luật châu Âu thống nhất được ký kết, là một bước quan trọng tiến đến Liên minh châu Âu. Trong tháng 9 năm 1987, với Erich Honecker, lần đầu tiên một người lãnh đạo đảng và nhà nước của Cộng hòa Dân chủ Đức viếng thăm Cộng hòa Liên bang Đức.
[sửa] Cộng hòa Dân chủ Đức (1949-1990)
- Bài chính: Lịch sử Cộng hòa Dân chủ Đức
Trong Quốc hội (Volkskammer – Viện Nhân dân) mới được thành lập Wilhelm Pieck là Chủ tịch nước và Otto Grotewohl là Chủ tịch Hội đồng Bột trưởng. Cho đến năm 1971 Walter Ulbricht với cương vị là Tổng bí thư của Đảng Xã hội chủ nghĩa Thống nhất Đức nắm giữ quyền lực quyết định trong nước Cộng hòa Dân chủ Đức. Thủ đô của nước Cộng hòa Dân chủ Đức là Đông Berlin.
Tháng 2 năm 1950 Bộ An ninh Quốc gia (CHDC Đức) (Ministerium für Staatssicherheit - Stasi) được thành lập. Trong tháng 7 đường sông Oder-Neiße được ký kết là ranh giới với Ba Lan. Vào ngày 15 tháng 10 cuộc bầu cử quốc hội đầu tiên được tiến hành.
Vào ngày 1 tháng 1 năm 1951 kế hoạch năm năm đầu tiên bắt đầu. Trong mùa xuân 1952 trong nước Đức nổi lên cuộc thảo luận về Công hàm Stalin, nhưng cuối cùng đề nghị này đã bị phương Tây từ chối. Vào cuối tháng 4, các xí nghiệp nhân dân (Volkseigener Betrieb - VEB) và hợp tác xã sản xuất nông nghiệp (Landwirtschaftliche Produktionsgenossenschaft - LPG) đầu tiên được thành lập.
Tháng 5 năm 1953 Đảng Xã hội chủ nghĩa Thống Nhất Đức quyết định tăng tiêu chuẩn lao động, việc đã gây ra nhiều chống đối và đã dẫn đến cuộc nổi dậy của quần chúng vào ngày 17 tháng 6, chỉ bị dập tắt với sự giúp đỡ của quân đội Xô viết (Đọc Cuộc nổi dậy năm 1953 tại Đông Đức). Bộ Chính trị của Đảng Xã hội chủ nghĩa Thống nhất Đức tự phê bình kiểm điểm và đề ra chính sách mới.
Trong những năm từ 1949 đến 1961 đã có khoảng 3 triệu người dân rời bỏ nước Cộng hòa Dân chủ Đức. Nhằm để ngăn chận việc này, nước Cộng hòa Dân chủ Đức đã khóa ranh giới với Tây Berlin bằng cách xây Bức tường Berlin.
Đầu thập niên 1970 đã có nhiều tiếp cận giữa hai nước Đức, việc chủ yếu do Thủ tướng Willy Brandt khởi đầu. Các cuộc đối thoại giữa hai quốc gia đã dẫn đến Hiệp ước Cơ bản (1972) trong năm 1973. Trong tháng 5 năm 1971 Walter Ulbricht bị tước quyền lực, Erich Honecker trở thành người kế nhiệm chức vụ Tổng bí thư Đảng Xã hội chủ nghĩa Thống nhất Đức.
Hai nước Đông và Tây Đức gia nhập Liên Hiệp Quốc trong năm 1973. Tháng 5 năm 1974 cơ quan đại diện thường trực của hai quốc gia Đức được thành lập tại Bonn và Đông Berlin. Hai quốc gia Đức ký kết Hiệp ước Helsinki vào ngày 1 tháng 8 năm 1975. Việc tước bỏ quốc tịch của nhà sáng tác nhạc Wolf Biermann trong tháng 11 năm 1976 đã dẫn đến nhiều cuộc phản đối trong nước Cộng hòa Dân chủ Đức, đặc biệt là trong giới những người làm nghệ thuật.
Nhờ thủ hiến tiểu bang Bayern Franz Josef Strauß môi giới, nước Cộng hòa Dân chủ Đức đã nhận được một khoản tiền vay hằng tỉ đồng từ Cộng hòa Liên bang Đức vào năm 1983 nhằm bảo đảm tính ổn định của đất nước. Tháng 9 năm 1987 Erich Honecker thăm viếng chính thức nước Cộng hòa Liên bang Đức.
Trong mùa hè và mùa thu 1989 ngày càng có nhiều công dân nước Cộng hòa Dân chủ Đức chạy trốn xuyên qua Hungary, nước mở cửa biên giới với Áo vào ngày 2 tháng 5. Bắt đầu từ ngày 11 tháng 9 các công dân nước Cộng hòa Dân chủ Đức đang tạm thời lưu trú trong các đại sứ quán của Cộng hòa Liên bang Đức tại các quốc gia Đông Âu cũng được phép sang Tây Đức.
Tình trạng kinh tế ngày càng xấu đi và thất vọng không có thay đổi tự do đã dẫn đến nhiều cuộc biểu tình phản đối trong khuôn khổ các buổi cầu nguyện cho hòa bình của Nhà thờ Tin Lành. Các cuộc biểu tình này, đặc biệt là ở Leipzig, đã nhanh chóng trở thành các cuộc biểu tình ôn hòa với rất nhiều người tham gia.
Vào ngày 18 tháng 10 Honecker từ chức. Chỉ ít ngày sau đó toàn bộ chính phủ Cộng hòa Dân chủ Đức đều nối gót ông. Bức tường Berlin được mở cửa vào ngày 9 tháng 11. Cuộc phản kháng ôn hòa của nhân dân Đông Đức dưới hình thức các cuộc biểu tình vào ngày thứ Hai cuối cùng đã làm sụp đổ chính quyền nước Cộng hòa Dân chủ Đức.
Vào ngày 3 tháng 10 năm 1990, thể theo Hiệp ước Thống nhất (Đức), việc nước Cộng hòa Dân chủ Đức gia nhập vào nước Cộng hòa Liên bang Đức theo chương 23 Hiến Pháp được hoàn thành.
[sửa] Nước Đức tái thống nhất từ 1990
- Đọc bài chính: Lịch sử Cộng hòa Liên bang Đức (từ 1990)
Cuộc bầu cử Quốc hội lần đầu tiên sau khi tái thống nhất được tiến hành trong tháng 12 năm 1990. Helmut Kohl vẫn là Thủ tướng Liên bang và tái đắc cử thêm một lần nữa vào năm 1994. Việc tăng trưởng hòa nhập với nhau của hai miền đất nước, thực hiện các cải cách cần thiết trong nhiều lãnh vực và hòa nhập với nhau của các quốc gia châu Âu là các đề tài chính trong nước Đức ngày nay.
Sau tái thống nhất hạ tầng cơ sở Đông Đức được cải tiến rất nhiều và một vài vùng phát triển rất tốt. Mặc dù vậy, tỷ lệ thất nghiệp vẫn còn rất cao mà hậu quả là nhiều người, đặc biệt là những người trẻ tuổi, đã bỏ sang Tây Đức. Xu hướng cực hữu tăng lên và Đảng Chủ nghĩa Xã hội Dân chủ ( Partei des Demokratischen Sozialismus - PDS), đảng kế thừa của SED, cũng nhận được số phiếu lớn trong các cuộc bầu cử.
Năm 1991, việc dời chính phủ từ Bonn về Berlin được thông qua và đến 1999 gần như đã hoàn thành. Năm 1994 Roman Herzog kế nhiệm chức vụ tổng thống của Richard von Weizsäcker, tiếp theo sau đó là Johannes Rau (từ 1999) và Horst Köhler (từ 2004).
Với Hiệp ước về Liên minh châu Âu được ký kết năm 1992, Cộng đồng châu Âu chuyển sang thành Liên minh châu Âu với nhiều thẩm quyền hơn. Hiệp ước cũng dự định ban hành đồng Euro và dẫn đến việc thay đổi Hiếp pháp, ghi nhận mục đích đi đến một châu Âu thống nhất.
Trong những năm gần đây lời yêu cầu một ghế trong Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc đã nhiều lần vang to, việc lúc đầu được nước ngoài quan sát một cách chỉ trích và theo chiều hướng xấu đi của quan hệ với Mỹ ngày càng trở nên không thực tế. Sau khi tái thống nhất, quân đội Liên bang Đức lần đầu tiên cũng đã tham gia các chiến dịch bên ngoài lãnh thổ Đức.
Qua cuộc bầu cử Quốc hội Liên bang 1998, thủ hiến tiểu bang Niedersachsen Gerhard Schröder thành lập chính phủ thay thế liên minh CDU/CSU-FDP dưới quyền của Kohl. Nguyên nhân là do việc trì hoãn cải cách. Lần đầu tiên một chính phủ Đức bị loại bỏ qua một cuộc bầu cử, các chính phủ trước đó thật ra là chỉ thay đổi đảng liên minh để cầm quyền.
Chính phủ mới của liên minh SPD và Liên minh 90/Đảng Xanh bắt đầu thực hiện các dự định cải cách, thế nhưng đa phần chúng lại được giảm thiểu đi nên tác dụng của các cải cách này đã bị tranh cãi rất nhiều.
[sửa] Nước Đức trong thế kỷ 21
Bắt đầu vào ngày 1 tháng 1 năm 2000 đồng tiền Euro là phương tiện thanh toán chính thức trong nước Đức. Chính phủ liên minh được xác nhận một lần nữa qua cuộc bầu cử năm 2002 tuy kết quả rất sít sao. Tháng Tám năm 2002 trận lụt thế kỷ tại hai con sông Elbe và Donau đã gây thiệt hại rất lớn. Mùa thu 2004 Hiệp ước về Hiến pháp châu Âu được ký kết và Phương án Hartz cải cách thị trường lao động được các đảng phái thông qua. Phương án Hartz, bắt đầu được thực hiện từ ngày 1 tháng 1 năm 2005, đã gặp phải nhiều chống đối. Qua việc gộp chung tiền trợ cấp thất nghiệp và tiền trợ cấp xã hội của phương án này, con số người thất nghiệp chính thức vượt quá ngưỡng 5 triệu vào đầu năm.
Từ vụ khủng bố Trung tâm Thương mại Thế giới vào ngày 11 tháng 9 năm 2001 (đọc Sự kiện 11 tháng 9), nước Cộng hòa Liên bang Đức phải đối mặt với nhiều thử thách mới cả trong lẫn ngoài nước. Sau Chiến tranh Afghanistan 2001, quân đội Liên bang Đức đã có lực lượng đóng tại Afghanistan.
Nước Đức gây chú ý về mặt ngoại giao trong năm 2003 khi không tham gia cuộc chiến tranh Iraq. Việc này đã dẫn đến nhiều mâu thuẩn với Mỹ nhưng lại đạt được nhiều sự đồng tình trong quần chúng Đức cho Schröder, người được đặc tả là "thủ tướng hòa bình".
Ngay sau cuộc bầu cử tại tiểu bang Nordrhein-Westfalen 2005, cuộc bầu cử mà đối với những người Xã hội Dân chủ là một thất bại và đã thay đổi thế lực trong Hội đồng Liên bang về hướng có lợi cho phe đối lập bảo thủ tự do, nguyên lãnh đạo Đảng SPD Franz Müntefering và Thủ tướng Liên bang Gerdhard Schröder đã tuyên bố sẽ tồ chức bầu cử mới vào năm 2005, việc gây nhiều ngạc nhiên. Schröder tự yêu cầu bỏ phiếu tín nhiệm với mục đích cố ý thất cử. Vì thế Tổng thống Liên bang Horst Köhler đã giải thể Quốc hội Liên bang vào ngày 21 tháng 7 năm 2005 để tiến hành bầu cử. Sau cuộc bầu cử, liên minh SPD/Đảng Xanh không đạt được đa số trong Quốc hội và sau các cuộc thương lượng kéo dài nhiều tuần, chính phủ của liên minh lớn thứ hai trong lịch sử Đức được thành lập từ CDU/CSU và SPD dưới quyền của Thủ tướng Angela Merkel.
Chính phủ liên minh chịu áp lực chính trị cao vì tăng trưởng kinh tế chậm, tỷ lệ thất nghiệp cao. Các dự tính của chính phủ đều dựa vào hy vọng có thể thực hiện dễ dàng các dự án cải cách như cải cách về bảo hiểm y tế và cải cách chế độ liên bang nhờ vào đa số trong Quốc hội Liên bang và Hội đồng Liên bang. Thế nhưng cuộc cải cách chế độ liên bang đã thất bại vào ngày 17 tháng 12 năm 2004 vì có nhiều ý kiến khác nhau về thẩm quyền cho chính sách giáo dục.
[sửa] Đọc thêm
[sửa] Các bài về một khía cạnh của lịch sử Đức
- Văn học tiếng Đức
- Lịch sử Hải quân Đức
- Tiếng Đức
- Triết học Đức
- Lịch sử các đảng phái trong nước Đức
- Đại đồ sát người Do Thái (Holocaust)
- Lịch sử tàu hỏa trong nước Đức
- Thuộc địa Đức
- Hanse
[sửa] Chiến tranh
Một số bài khác về các cuộc chiến tranh có sự tham gia của Đức hay các quốc gia Đức:
- Chiến tranh nông dân Đức (1525)
- Các cuộc chiến tranh của đế quốc Ottoman trong châu Âu (1663-1699)
- Các cuộc chiến tranh Bắc Âu (1700-1721)
- Các cuộc chiến tranh Schlesien
- Chiến tranh bảy năm (1756-1763)
- Chiến tranh kế vị Bayern (1778/1779)
[sửa] Lịch sử các quốc gia Đức trước kia và ngày nay
- Vương quốc Frank Đông
- Lịch sử Bayern
- Lịch sử Sachsen
- Lịch sử Thüringen
- Anhalt
- Schlesien
- Böhmen
[sửa] Lịch sử một số thành phố lớn của Đức
- Lịch sử Berlin
- Lịch sử Dresden
- Lịch sử Frankfurt am Main
- Lịch sử Köln
- Lịch sử Leipzig
- Lịch sử München
[sửa] Tham khảo
- Müller, Rainer A. (Hg.): Deutsche Geschichte in Quellen und Darstellung
- Deutsche Geschichte ISBN 3-525-36187-4
- Dirlmeier, Ulf/Gestrich, Andreas/Herrmann, Ulrich/Hinrichs, Ernst/Kleßmann, Christoph/Reulecke, Jürgen: Kleine deutsche Geschichte ISBN 3-15-009359-7
- Müller, Helmut M.: Schlaglichter der deutschen Geschichte (Trung tâm liên bang về giáo dục chính trị)
- Schulze, Hagen: Kleine deutsche Geschichte ISBN 3-406-40999-7
- Lothar Gall (xuất bản): Enzyklopädie deutscher Geschichte
- Dieter Groh (xuất bản): Propyläen Geschichte Deutschlands
- Herbert Grundmann (xuất bản): Gebhardt. Handbuch der deutschen Geschichte
- Neue Deutsche Geschichte
- Siedler Deutsche Geschichte
- Hans-Ulrich Wehler (xuất bản): Moderne Deutsche Geschichte ISBN 3-518-09240-5
[sửa] Liên kết ngoài
- Bản đồ lịch sử Đức (tiếng Anh, tiếng Đức)
- Lịch sử Đức trên thư viện ảo (tiếng Đức, tiếng Anh)
- DocumentArchiv.de: 1085 văn kiện về lịch sử Đức từ 1800 (tiếng Đức)